Vốn phụ thuộc vào ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro
Chiều 10/6, báo cáo giải trình về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), bà
Nguyễn Thị Hồng – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cho biết, đã có tổng cộng 121 ý kiến quan tâm đến dự án này.
Thống đốc Ngân hàng khẳng định, việc điều chỉnh giảm các giới hạn về sở hữu của cổ đông và người có liên quan nhằm hạn chế việc thao túng và sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời, dự thảo luật cũng đã mở rộng phạm vi “người có liên quan” so với những quy định của Luật Doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra là, quy định như thế đã khắc phục được triệt để hay chưa? “Trên thực tế, đối với những quy định về sở hữu cổ đông, quy định về sở hữu chéo, chúng ta không cho phép. Thực tiễn, tỷ lệ sở hữu cũng như sở hữu chéo về cơ bản được khắc phục. Nhưng trong thực tiễn, như một số đại biểu nói, có thể các cổ đông nhờ những người có liên quan đứng tên, mà đối với ngân hàng cũng không thể nắm được. Vừa qua, có một số vụ án mới thấy có những trường hợp đứng tên sở hữu”, bà Hồng nói.
Thống đốc Ngân hàng cho rằng, quy định đặt ra chỉ là “một trong cách để hạn chế”, còn muốn giải quyết được việc này, đòi hỏi rất nhiều công cụ, giải pháp và từ nhiều cơ quan khác nhau.
Trên thực tế, đối với hoạt động ngân hàng của Việt Nam, nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào ngân hàng. Thống đốc cho biết, các tổ chức quốc tế cũng cảnh báo, nếu nhu cầu đầu tư tiếp tục phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro. Bất cứ khi nào mà kinh tế thế giới, trong nước có những biến động phức tạp, ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân thì sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng.
“Khi ngân hàng ảnh hưởng thì domino sẽ rất hệ lụy đến nền kinh tế. Chính vì vậy, đồng bộ với việc phát triển ngành ngân hàng thì các thị trường như thị trường vốn, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp cần phải được phát triển đồng bộ. Hiện nay Chính phủ đang có các giải pháp để hướng đến điều đó”, Thống đốc cho hay.
“Nếu một ngân hàng cho vay một doanh nghiệp có nhu cầu vốn rất lớn thì mức độ tập trung rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. Việc đồng tài trợ sẽ là chia rủi ro đối với các ngân hàng. Khi doanh nghiệp đấy bị làm sao thì bản thân các ngân hàng cũng chia sẻ rủi ro. Trong trường hợp các ngân hàng không đồng tài trợ được thì vẫn có một cơ chế là Thủ tướng Chính phủ quyết định”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng.
Ngồi ở nhà, rút hơn 100 tỷ USD sau vài ngày
Đối với vấn đề “can thiệp sớm”, bà Hồng cho biết, đây là điểm mới ở dự thảo luật lần này. Những quy định này được Ban soạn thảo đưa ra trên cơ sở thực tiễn những vướng mắc trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém thời gian qua, cũng như thực tiễn từ
sự kiện rút tiền hàng loạt của SCB
, tháng 10/2022; đặc biệt là tham khảo kinh nghiệm từ sự đổ vỡ của các ngân hàng trên thế giới, gần đây là các ngân hàng thương mại của Mỹ.
Bà Hồng lý giải, với một tổ chức tín dụng được thành lập, cấp phép khi đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong quá trình hoạt động, do yếu tố khách quan, chủ quan, các tổ chức tín dụng sẽ có những thời điểm, giai đoạn khó khăn.
Trong quá trình thanh tra, giám sát, cơ quan quản lý cũng sẽ cảnh báo rủi ro để các tổ chức tín dụng chấn chỉnh kịp thời. Còn nếu các tổ chức tín dụng có những diễn biến xấu hơn và có nguy cơ mất khả năng chi trả cho người dân, khi đó mức độ quản lý sẽ cần mạnh hơn thông qua quá trình can thiệp sớm.
Trong quá trình can thiệp sớm ở đây trước hết phải là trách nhiệm của các cổ đông và chủ sở hữu ngân hàng. Họ phải có phương án để khắc phục khó khăn và cơ quan quản lý sẽ đưa ra những hạn chế trong hoạt động của họ, đặc biệt trong giai đoạn này cần các giải pháp hỗ trợ.
“Có cả hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người cho vay cứu cánh cuối cùng khi tổ chức tín dụng bị khó khăn về thanh khoản, để đáp ứng nhu cầu chi trả cho người dân. Bên cạnh đó cũng huy động nguồn lực hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng khác, rồi từ bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Hợp tác xã…”, bà Hồng nói.
Theo Thống đốc, thực tế kinh nghiệm quốc tế vừa qua cho thấy, không phải chờ đến các tổ chức tín dụng khó khăn về thanh khoản mới vào cuộc xử lý. Bà Hồng ví dụ, 2 ngân hàng của Mỹ là Silicon Valley Bank và First Republic Bank, có tổng tài sản trên 200 tỷ USD, nợ xấu rất thấp, chỉ dưới 1% và số dự phòng rủi ro so với giá trị nợ xấu gấp 4,6 đến 6 lần.
Đây là các ngân hàng có lãi liên tiếp từ năm 2010 đến nay, nhưng các ngân hàng vẫn bị rủi ro rút tiền hàng loạt. Đặc biệt, bây giờ với sự phát triển của công nghệ, người dân không phải đến rút tiền ở ngân hàng, mà có thể ngồi ở nhà điều khiển bằng điện thoại. Chỉ trong vài ngày, ngân hàng đã bị rút hơn 100 tỷ USD. Sau đó ngân hàng Trung ương của Mỹ phải cho vay trên 100 tỷ USD và các ngân hàng khác trong hệ thống cũng phải cho vay đến vài chục tỷ USD.
“Với ngân hàng bình thường, nếu chỉ vì nguyên nhân nào đấy vẫn có sự rút tiền hàng loạt, thì ở đây đều được đưa vào quá trình can thiệp sớm. Còn nếu chờ đến lúc tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt (giai đoạn rất khó khăn) mới thực hiện các giải pháp hỗ trợ thì khó có thể để đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng”, bà Hồng nói.