TS. Nguyễn Ngọc Trân đã dịch và đặt tựa đề tiếng Việt là “Việc con người sử dụng con người: Điều khiển học và xã hội” cho cuốn sách The Human Use of Human Beings: Cybernetics and Society (sau đây viết tắt HUoHB) của tác giả Nobert Wiener. Việc dịch từ tựa đề tiếng Anh đã cố gắng sát nghĩa nhất có thể và có tham khảo tựa sách đã dịch ra các tiếng nước ngoài khác.
Trong
thời đại chúng ta đang sống, những tranh chấp địa chính trị dồn dập khó lường, các chuỗi cung ứng toàn cầu do đó mong manh và dễ đứt gãy, chỉ
có khoa học công nghệ tiến ngày càng nhanh và được khai thác cho nhiều mục tiêu
khác nhau, sự phân hóa xã hội đa chiều ngày càng doãn ra, và thông tin cần thiết cho sự sống của
con người ngày càng trở thành quyền lực và hàng hóa, là chắc chắn. Đọc HUoHB và suy ngẫm về những chủ đề nó nêu lên thiết nghĩ không
phải là một hoạt động kinh viện, xa xỉ.
Về
tác giả Norbert Wiener
Nobert Wiener (dưới đây Wiener) là con một gia đình nhập cư vào Hoa Kỳ. Ông sinh năm 1894, tốt nghiệp Bachelor of Arts tại Tufts College năm 1909, Master of Arts Triết học năm 1912 rồi PhD Triết Toán học tại Harvard University năm 1913 với luận
án “Comparison Between the Treatment of the Algebra of Relatives by
Schroeder and that by Whitehead and Russell” khi mới 19 tuổi.
Ông là Giáo sư Toán tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), tại đây ông đã thực hiện hợp đồng nghiên cứu với quân đội Hoa Kỳ, hoàn thành năm 1942. Biết kết quả nghiên cứu của mình đã được sử dụng vào mục đích quân sự mà ông không
hề dược thông báo, năm 1947
khi quân đội mời
ông tham gia một hợp đồng khác để phát triển hệ thống điều
khiển pháo phòng không
nâng cao hơn, và hệ thống dẫn đường tự động, ông đã từ chối. Ông tập trung
vào công tác giảng dạy và nghiên cứu Toán – Triết học. Ông mất năm 1964. Ông đã có khoảng 300 công trình được công bố và đã xuất bản
11 cuốn sách mà nổi tiếng và nhiều người
đọc nhất là Cybernetics: Or control and communication in the animal
and the machine2, và The human
use of human beings: Cybernetics and Society3.
Bối cảnh ra đời của HUoHB
HUoHB được viết
“vào đêm hôm trước” của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba: lý thuyết toán của truyền
thông của C. Shannon (1948), lý thuyết Cybernetics (điều khiển học) của N.
Wiener (1948) đã được công bố, máy tính điện tử hoàn chỉnh đầu tiên sắp ra đời.
Điều khiển học trở thành lĩnh vực liên ngành có sức lan tỏa mạnh sang các ngành từ kỹ thuật, toán,
sinh học thần kinh,
xã hội học đến triết học. Wiener muốn “đại
chúng hóa” điều khiển học, chỉ rõ những
gì nó có thể mang lại tốt đẹp cho loài người đồng thời làm rõ nguy cơ phát minh
mới bị “vũ khí hóa”.
Vào thời gian đó (1946
– 1953) mười hội nghị khoa học liên ngành
do Quỹ Josiah Macy,
Jr. tổ chức tại New York
(Macy Conferences) quy tụ các nhà
khoa học như Norbert Wiener, John von Neumann, Warren McCulloch, Claude
Shannon, Ross Ashby … là môi trường cho điều khiển học (cybernetics) và lý thuyết
hệ thống đi sâu và phát triển.
Từ sinh hoạt này Wiener
có ý tưởng con người
cũng là hệ thống thông tin và phản
hồi, nhưng có ý thức và trách
nhiệm đạo đức, điều mà máy móc
không có.
Hai quả bom nguyên tử
ném xuống Hiroshima và Nagasaki, Thế chiến vừa chấm dứt thì Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang bắt đầu. Ông chắc chắn rằng các thành tựu về khoa học và công nghệ
sẽ (như đã) được khai thác. Chính vì lẽ đó, Wiener đã khước từ lời mời hợp tác với quân đội Hoa Kỳ. Hơn thế, trong một bức thư gửi cộng đồng khoa học năm 1947,
ông nhấn mạnh trách nhiệm
xã hội của khoa học, công nghệ là phục vụ chứ không hủy diệt con người.
Tất cả những điều trên là động lực để ông viết HUoHB.
NỘI DUNG CỦA HUoHB
HUoHB có nhiều ấn bản: năm 1950,
năm 1954 và tái bản có sửa đổi bổ sung, được in lại năm 1989, và năm 1964 năm ông qua đời. Số chương, tên các chương và nội dung thay đổi qua các ấn bản. Ấn bản mà tác giả đã đọc và
được trình bày trong bài viết này là ấn bản năm 1954 có sửa đổi bổ sung và in lại năm 1989 (The Human Use of Human Beings:
Cybernetics and Society).
Mười một chương trong 178 trang, mỗi trang bình quân 370 từ cho ta một ý niệm về độ “đậm
đặc”của lượng thông tin mà HUoHB chuyển
tải. Mặt khác văn phong của Wiener,
một nhà toán học và triết học, không dễ đọc bởi xu hướng lập luận, đối thoại và khái quát hóa vấn đề của ông, dù rằng một chủ đích của ông khi viết HUoHB là đại chúng hóa điều khiển học.

“Trong thời đại chúng ta đang sống, những tranh chấp địa chính trị dồn dập khó lường, các chuỗi cung ứng toàn cầu do đó mong manh và dễ đứt gãy, chỉ có khoa học công nghệ tiến ngày càng nhanh và được khai thác cho nhiều mục tiêu khác nhau, sự phân hóa xã hội đa chiều ngày càng doãn ra, và thông tin cần thiết cho sự sống của con người ngày càng trở thành quyền lực và hàng hóa, là chắc chắn.
Đọc HUoHB và suy ngẫm về những chủ đề nó nêu lên thiết nghĩ không phải là một hoạt động kinh viện, xa xỉ”.
1. Các chương, nội dung tóm tắt:
Chương I. Cybernetics in
History (Điều khiển học trong lịch sử) (tr. 15–27) trình bày lịch sử hình thành và phát triển của điều
khiển học, từ các khái niệm về thông tin, thông điệp, kiểm soát, phản hồi trong kỹ thuật, sinh học, xã hội học, đến sự ra đời của thuật
ngữ “cybernetics”. Wiener
nhấn mạnh đóng góp của các nhà khoa học Gibbs, Shannon, McCulloch,
Turing… và mối liên hệ giữa điều
khiển học với các ngành khoa học khác.
Chương II. Progress and Entropy (Tiến bộ và Entropy) (tr. 28–47). Wiener gọi Progress (Tiến bộ) là sự gia tăng mức độ tổ chức trong các hệ thống có khả năng thu nhận và sử dụng thông tin. Entropy mà ông mượn từ nhiệt động lực học được sử dụng để chỉ xu hướng tự nhiên của vật chất là đi tới phân tán và hỗn loạn. Trong bối cảnh đó, sinh vật và các hình thức tổ chức xã hội được ông xem như những
“đảo entropy giảm”, tức những vùng cục bộ duy trì trật tự cao hơn môi trường xung quanh.
Chương III. Rigidity and Learning: Two Patterns of Communicative Behavior
– Cứng nhắc và Học hỏi: Hai
mô hình hành vi truyền thông (tr. 48–73) so sánh hai
mô hình hành vi truyền thông: cứng nhắc (rigidity) như ở loài kiến, và học hỏi (learning) như ở con người. Wiener nhấn mạnh sự khác biệt về khả năng thích nghi, học tập, và vai trò của phản hồi trong quá trình tiến hóa xã hội và công nghệ.
Chương IV. The Mechanism and History of Language (Cơ chế và Lịch sử của Ngôn ngữ) (tr. 74–
94) tập trung vào cơ chế sinh học, xã hội và lịch sử của ngôn ngữ, phân biệt giữa truyền
thông ở động vật và con người, và vai trò của ngôn ngữ trong việc duy trì tổ chức xã hội, truyền đạt thông tin, và phát triển
tri thức.
Chương V.
Organization as the Message (Tổ chức như là Thông điệp) (tr. 95–104). Wiener đưa ra quan điểm “tổ chức là thông điệp”, nhấn mạnh rằng bản chất của sự sống, cá nhân, xã hội là các mô hình tổ chức
thông tin, không phải chỉ là vật chất thuần túy. Chương V còn bàn về khái niệm cân bằng nội môi (homeostasis), bản sắc cá nhân, và khả năng truyền tải mô hình tổ chức qua thông điệp.
Chương VI. Law and
Communication (Luật pháp và Truyền thông) (tr. 105–111) phân tích mối quan hệ giữa luật pháp, công lý và truyền thông. Wiener
bàn về vai trò của ngôn ngữ pháp lý, tiền lệ,
hợp đồng, và các nguyên tắc công bằng trong xã hội hiện đại, nhấn mạnh tầm
quan trọng của truyền thông minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật.
Chương VII. Communication, Secrecy,
and Social Policy (Truyền thông, Bí mật và Chính sách
xã hội) (tr. 112–130) bàn về các vấn đề liên quan đến
bí mật, sở hữu trí tuệ, chính sách xã hội trong bối cảnh truyền thông hiện đại.
Wiener cảnh báo về nguy cơ lạm dụng bí mật, cạnh tranh quân sự, và sự cân bằng cần thiết giữa chia sẻ tri thức và bảo vệ lợi ích xã hội.
Chương VIII. Role of the Intellectual and the Scientist (Vai trò của Trí
thức và Nhà khoa học) (tr. 131–135) phân tích vai trò của trí thức, nhà
khoa học trong xã hội hiện đại, đặc biệt là
trong việc truyền đạt tri thức,
sáng tạo, và trách nhiệm
xã hội trước sự phát triển của công nghệ và truyền
thông.
Chương IX. The First and the Second Industrial Revolution (Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai) (tr. 136–162)
điểm lại hai cuộc cách mạng công nghiệp:
lần thứ nhất (cơ khí hóa,
máy hơi nước) và lần thứ hai (công nghiệp hóa, tự động hóa). Wiener dự báo về tác động của tự động
hóa, máy tính đối với lao động, xã hội, và nhấn mạnh tầm quan trọng của quản trị nhân văn trong kỷ
nguyên mới.
Chương X. Some Communication Machines
and Their Future
(Một số máy truyền thông và
Tương lai của chúng) (tr. 163–186) trình bày các loại máy truyền thông (máy tính, máy học, thiết bị trợ
giúp y tế …), nguyên lý phản hồi, học máy, và dự báo về tương lai của máy móc trong xã hội. Wiener cảnh
báo về nguy cơ phụ thuộc vào máy móc và nhấn mạnh vai trò của đạo đức, trách
nhiệm con người.
Chương XI. Language, Confusion, and Jam (Ngôn ngữ, sự Nhầm lẫn và Tắc nghẽn)
(tr. 187– 193). Chương cuối cùng bàn
về các vấn đề nhầm lẫn, tắc nghẽn
trong truyền thông, vai trò của
niềm tin khoa học, triết học về thiện ác (Augustinianism vs.
Manichaeanism), và tầm quan trọng của thái độ cởi mở, sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học và xã hội.
Index – Mục lục tra cứu (tr. 194–199) liệt kê các thuật ngữ, tên riêng,
chủ đề quan trọng trong sách, giúp độc giả tra cứu nhanh nội
dung liên quan.
2. Những chủ đề cốt lõi có liên quan đến điều khiển
học và xã hội
2.1. Thông tin (Information). Trong HUoHB, không có một chương riêng cho Thông tin. Wiener cũng không đưa ra một định nghĩa
hay một công thức để định lượng “information”, thay vào đó ông
mô tả nó trong mối quan hệ với các nội dung khác sẽ thấy sau đây.
a.
Thông tin là sự tổ chức
(organization), đối lập của hỗn loạn. Thông tin
là một dạng trật tự ngược lại với entropy, biểu hiện sự ngẫu
nhiên, hổn độn, vô tổ chức: entropy tăng là xu hướng tự nhiên của vũ
trụ, còn thông tin là thứ làm giảm xu
hướng đó trong các hệ thống sống và máy móc.
b.
Thông tin không phải vật chất hay năng lượng
mà là mẫu hình (patterns). Con người,
máy móc và xã hội tồn tại và hoạt động bằng cách nhận biết, xử lý và
truyền các mẫu hình này.
c.
Thông tin là cơ sở của điều khiển (control)
và truyền thông (communication). Giữa người –
máy – xã hội, tất cả dựa trên
trao đổi thông tin.
d.
Thông tin là thước đo khả năng làm giảm entropy: Một hệ thống
sống duy trì bản thân bằng
cách lấy thông tin từ môi trường để chống lại sự phân rã. Con người và xã hội bảo
tồn cấu trúc của mình thông qua thông tin.
đ. Thông tin thích đáng (adequate Information) là thông tin đủ để một cá nhân hoặc hệ thống giảm bất định về tình huống
và ra quyết định hiệu quả. Đủ ở
đây bao hàm bốn thuộc tính: liên
quan (trực tiếp ảnh hưởng tới quyết định; không liên
quan sẽ tạo nhiễu), kịp thời (đến
trong khoảng thời gian còn hữu dụng cho hành
động), đáng tin (nguồn và phương pháp
thu thập có độ chính xác và độ tin cậy cao) và có thể dẫn đến hành động được (đủ cụ thể để chuyển thành bước thực
thi hoặc điều chỉnh) nhằm đạt mục tiêu cụ thể.
2.2. Phản hồi (feedback) là cơ sở của
kiểm soát và học hỏi
Thành tựu nền tảng của Wiener trong lý thuyết điều khiển học là khái niệm feedback (phản hồi). Máy móc thế hệ mới có thể ‘cảm nhận’ môi trường, ghi nhận cảm nhận đó, đưa thông tin này trở lại hệ thống để điều chỉnh, tối ưu hóa, giống như hành vi có mục đích của con người,
động vật.
Phản hồi có hai dạng chính: Phản hồi âm (negative
feedback) giúp hệ thống duy trì trạng thái
cân bằng, chống lại các nhiễu loạn bên
ngoài (ví dụ: bộ
ổn nhiệt phòng, cơ chế cân
bằng nhiệt độ cơ thể) và Phản hồi
dương (positive feedback) thúc đẩy tăng trưởng hoặc khởi tạo các trạng thái
mới trong hệ thống (như bùng nổ dân
số, lan truyền dịch bệnh, hiệu ứng lan truyền trên
mạng xã hội).
Phản hồi là nền tảng của học tập (learning), thích ứng và kiểm soát,
không chỉ trong máy móc mà còn xuyên suốt các hệ
thống sinh học, kinh tế, xã hội.
Thông tin phản hồi chính xác và
kịp thời là điều kiện cần để hệ thống duy trì ổn định và phát triển đúng hướng.
2.3. Entropy và Negentropy – Entropy và phủ định của entropy
Wiener vận dụng khái niệm entropy từ nguyên lý thứ hai của
nhiệt động lực học, từ vật lý thống kê để biểu thị xu hướng tự nhiên của mọi hệ thống vật chất là tiến tới hỗn loạn, mất trật tự. Ông xem
sự sống, tổ chức, xã hội … là những ‘đảo
negentropy’ – nơi mà trật tự, tổ chức
và trao đổi thông tin được duy trì làm cho entropy thấp hơn xung quanh.
Thông tin là dạng ‘trật tự
hóa’; khi nó được cấu trúc tốt, sẽ
giúp entropy của hệ thống giảm. Một xã hội năng động, sáng tạo, học hỏi không ngừng chính là xã hội biết tổ
chức, truyền và xử lý thông tin hiệu quả.
(Xem 2.1.a)
2.4. Xã hội thông qua lăng kính điều khiển học: Thông điệp (message).
Xuất phát từ các nhận xét kỹ thuật ở mỗi thời đại và tư duy xã hội có mối tương quan; các hiện tượng xã hội vận hành như mạng tín hiệu có phản hồi; khung điều khiển – truyền thông
cho phép mô tả,
định lượng và dự đoán hành vi hệ thống,
Wiener cho rằng chỉ có thể hiểu xã hội hiện đại thông qua nghiên cứu các ‘thông điệp’ (message) và các hệ thống truyền thông (communication) giữa
con người, giữa người và máy,
giữa máy với máy.
Thông điệp theo Wiener
là tín hiệu hay sự kiện mang thông tin, có thể định lượng, làm giảm bất định nơi người
nhận và qua đó cho phép điều khiển/điều chỉnh hành vi trong một hệ thống có phản
hồi. Một thông điệp có hiệu quả là thông điệp
tạo ra sự khác biệt trong nhận thức hoặc hành vi nơi người tiếp nhận.
Ông nhấn mạnh rằng bản chất của
các hệ thống sống và tổ chức
xã hội là việc điều chỉnh, xử lý và truyền các thông điệp trong các
vòng phản hồi; điều khiển học cung cấp khung khái niệm và công cụ để định lượng, mô tả và dự đoán cách các hệ này xử lý thông tin và duy trì trật tự, đồng thời
cảnh báo về giới hạn và hậu quả xã hội của việc áp dụng mô hình kỹ thuật.
2.5. Cảnh báo về
xã hội máy móc, phi nhân hóa
HUoHB cảnh báo mạnh mẽ về “sự phi nhân hóa”,
khi xã hội lạm dụng tự động hóa mà không
đi kèm quan điểm nhân văn, con người có thể bị biến thành công cụ đơn nhiệm. Điều
này đặc biệt nguy hiểm khi quản trị lạm dụng công nghệ mới để kiểm soát xã hội.
2.6. Máy móc phải phục vụ sự phát triển toàn diện của con người
Wiener nhấn mạnh:
máy móc và tự động hóa phải giải phóng
con người khỏi lao động đơn điệu để họ sáng tạo trong nghệ thuật, khoa học, triết
học, nâng cao chất lượng
sống. Nếu dùng công
nghệ chỉ để bám vào lợi ích kinh tế hoặc kiểm soát quyền lực, nhân loại sẽ đối diện khủng hoảng thất
nghiệp diện rộng, mất bản sắc, tình trạng phân tầng xã hội bất công và nguy cơ đánh mất chính mình.
Câu nói của ông “Máy móc nên phục vụ lợi ích của con người, tăng thời gian nhàn
rỗi và làm giàu đời sống tinh thần của con người” được trích dẫn rộng rãi.
2.7. Vai trò của trí thức và nhà khoa học
Wiener dự báo về tác động của tự động hóa, máy tính đối với lao động, xã hội, và nhấn mạnh tầm
quan trọng của quản trị nhân văn trong
kỷ nguyên mới. Ông phê phán xu hướng thương
mại hóa, quan liêu hóa giáo dục,
và sự suy giảm sáng tạo, độc lập tư duy trong xã hội hiện đại. Mặt khác ông nhấn
mạnh vai trò của trí thức, nhà khoa học, đặc
biệt là trong việc truyền đạt
tri thức, sáng tạo, và trách nhiệm xã hội trước sự phát triển của công nghệ và
truyền thông.
NHỮNG THÔNG ĐIỆP TỪ HUoHB THAY LỜI KẾT
Norbert Wiener là một nhà toán – triết học lớn, đã sáng lập một ngành khoa học mới, nổi bật
ở tư duy liên ngành, luôn gắn công nghệ, máy móc với đạo đức và xã hội. Ảnh hưởng
lâu dài của Wiener vượt ra ngoài học thuật là điều không
thể phủ nhận. Tuy vậy một số học giả cho rằng ông đã đi quá xa khi mở rộng khái niệm điều khiển và truyền thông sang cả sinh học, xã hội và chính trị khiến khái niệm trở nên mơ hồ hoặc khó kiểm
chứng. Thay lời kết bài viết, xin trích từ HUoHB
bốn thông điệp tâm huyết mà ông nhắc lại mỗi khi có dịp lúc sinh thời, để
suy ngẫm trong bối cảnh hiện nay.
“We can be the masters of our technology and not its slaves.” Chúng ta có thể làm chủ công
nghệ của mình, chứ không phải trở thành nô lệ của nó.
“To live effectively is to live with adequate information”. Sống hiệu quả là sống với thông tin đủ (thích đáng).
“Progress imposes not only new possibilities for the future but new
restrictions.” Tiến bộ không chỉ mở ra những khả năng mới cho tương lai mà còn đặt ra những giới hạn mới.
“The future which lies ahead of us is full of dangers, but it is also
full of hope, if we proceed with courage and with intelligence.” Tương lai phía trước đầy rẫy hiểm nguy, nhưng cũng tràn đầy hy vọng, nếu chúng ta tiến bước với lòng
can đảm và trí tuệ.
—
(*) Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (1980-1992), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội (1997-2007), nguyên Phó Chủ tịch Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (1997-2007);
(2) (1948), Paris Hermann Cie; MIT Press; John Wiley Sons;
(3) (1950) Houghton Mifflin; (1954, Revised and enlarged ed.) Houghton Mifflin.
-TS.Nguyễn Ngọc Trân*




