Bộ Công Thương cho biết sau 10 năm triển khai Quy hoạch phát triển ngành gốm sứ – thủy tinh (năm 2014), cho đến nay, ngành gốm sứ Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về năng lực sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, với ngành gốm sứ xây dựng, tổng công suất thiết kế gạch ốp lát hiện ở mức 850 triệu m2, sứ vệ sinh 26 triệu sản phẩm.
THIẾU NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT, CẠNH TRANH GAY GẮT
Sản xuất ngành gốm sứ mỹ nghệ có quy mô lên đến 5.400 làng nghề và trải rộng khắp cả nước. Trong số này, gần 2.000 là làng nghề truyền thống với 115 nghề đã được công nhận.
Bên cạnh đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trường nước, sản phẩm gốm sứ của Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, EU, Thái Lan…
Giai đoạn 2019 -2023, xuất khẩu sản phẩm gốm sứ của Việt Nam tăng trưởng bình quân 3,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao nhất vào năm 2022 là 711 triệu USD, tuy nhiên đã giảm 13% trong năm 2023.
Mặc dù vậy, xuất khẩu gốm sứ của Việt Nam sang nhiều thị trường trong giai đoạn 2019 – 2023 có xu hướng tăng như: Mỹ tăng 7,4%/năm, Nhật Bản tăng 6,7%/năm, Đài Loan tăng 13,6%/năm, Thái Lan tăng 3,6%/năm, Philippin tăng 10,5%/năm…
Cơ cấu chủng loại gốm sứ xuất khẩu của Việt Nam cũng đã tăng ở nhiều chủng loại trong giai đoạn 2019 – 2023 như: gốm sứ vệ sinh tăng 0,9%/năm; gạch lát nền, ốp tường các loại tăng 12,5%/năm; đồ gốm sứ dùng trong phòng thí nghiệm tăng 9%/năm; gạch chịu lửa và các sản phẩm gốm sứ xây dựng chịu lửa khác tăng 7,3%/năm; bộ đồ ăn, đồ nhà bếp và đồ gia dụng bằng sứ tăng 14,9%/năm; gốm sứ chịu lửa khác tăng 13,8%/năm…
Trong 6 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu gốm sứ của Việt Nam đã phục hồi trở lại và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Tuy vậy, theo Bộ Công Thương, ngành gốm sứ Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt trong trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu gốm sứ xây dựng như thiếu nguyên liệu sản xuất, giá nguyên liệu tăng cao nhưng giá sản phẩm cuối cùng không tăng.
Vấn đề quy hoạch các mỏ khai thác nguyên liệu cũng như kỹ thuật khai thác mỏ kém. Việc khai thác mỏ với các tầng địa chất khác nhau dẫn đến tình trạng chất lượng của nguyên liệu không tốt. Nguồn nguyên liệu không có tính chuyên nghiệp khiến gây khó khăn cho các nhà sản xuất.
Cùng với đó thị trường bất động sản trong nước trầm lắng nên việc tiêu thụ sản phẩm gốm sứ xây dựng có nhiều hạn chế.
Không chỉ vậy, thị trường xuất khẩu phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ngay ở thị trường nội địa và xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu ngày càng đưa ra nhiều tiêu chuẩn, yêu cầu khắt khe…
HƯỚNG TỚI CÁC TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, trong dài hạn, ngành gốm sứ Việt Nam được dự báo sẽ còn nhiều cơ hội để tăng trưởng, nhờ vào sự phát triển không ngừng của công nghệ, nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, cũng như sự đổi mới trong thiết kế và sản phẩm…
Trong đó, nhu cầu về sản phẩm gốm sứ, đặc biệt là các sản phẩm gốm sứ cao cấp và nghệ thuật, đang gia tăng trên toàn cầu. Các thị trường lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và các nước ASEAN đều có nhu cầu cao về sản phẩm gốm sứ chất lượng.
Ngoài ra, sự gia tăng trong tiêu dùng sản phẩm gốm sứ cho trang trí nội thất và quà tặng đang thúc đẩy nhu cầu trên các thị trường quốc tế… Đặc biệt, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác quốc tế, như: Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA)… giúp giảm thuế xuất khẩu và mở rộng cơ hội thị trường.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam thường xuyên cung cấp các chính sách hỗ trợ xuất khẩu, bao gồm ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính và đào tạo, đặc biệt, các chương trình xúc tiến thương mại do chính phủ tổ chức giúp doanh nghiệp gốm sứ Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế, tham gia triển lãm quốc tế và xây dựng mối quan hệ với các đối tác quốc tế.
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gốm sứ, các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng vào nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ sản xuất, đảm bảo chất lượng và độ bền của sản phẩm, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn và môi trường.
Đa dạng hóa mẫu mã và sản phẩm, tạo ra nhiều mẫu mã và kiểu dáng phong phú để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của các thị trường khác nhau.
Tăng cường quảng bá và xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm gốm sứ Việt Nam.
Theo bà Hà Thị Vinh, Giám đốc Công ty TNHH Gốm sứ Quang Vinh, trong ngành gốm sứ mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đào tạo rất lâu mới có công nhân lành nghề. Vì thế cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động trong ngành gốm sứ, quan trọng nữa cần khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.
Đặc biệt, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, nghiên cứu và mở rộng thị trường mới, nhất là các thị trường tiềm năng có nhu cầu cao về sản phẩm gốm sứ.
Tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác với các doanh nghiệp và tổ chức quốc tế, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do để tận dụng các ưu đãi về thuế quan.
Ngành gốm sứ cần chú trọng yếu tố văn hóa và bản sắc, trong đó kết hợp yếu tố văn hóa và bản sắc dân tộc vào sản phẩm để tạo ra giá trị đặc biệt và sự khác biệt trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử, tận dụng các kênh bán hàng trực tuyến và công nghệ số để tiếp cận thị trường và khách hàng quốc tế một cách hiệu quả hơn.
Bên cạnh vai trò của doanh nghiệp, theo bà Vinh, các Bộ, ngành phải có chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp về vấn đề nguyên liệu. Doanh nghiệp cũng rất cần sự hỗ trợ trong công tác xúc tiến thương mại. Việc thường xuyên tham gia các hội chợ trong và ngoài nước sẽ là cơ hội rất tốt để doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, nắm bắt được xu thế thị trường từ đó định hướng được sản xuất đúng và trúng.