Ngành chăn nuôi bò sữa Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức: đàn bò suy giảm, trong khi chi phí sản xuất cao và cạnh tranh từ sữa nhập khẩu ngày càng lớn. Để đạt mục tiêu đến 2045, sản lượng sữa bình quân/người đạt trên 100 kg/năm, Nhà nước cần ban hành Chương trình quốc gia về phát triển ngành sữa bền vững, đồng thời hoàn thiện hệ thống chính sách về điều kiện sản xuất – kinh doanh, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm sữa…
Ngày 23/9/2025, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với
Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Chăn nuôi gia súc lớn Việt Nam tổ chức tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục phát triển đàn bò sữa”.
TS. Lương Anh Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Giống gia súc
lớn Trung ương, cho biết theo số liệu thống kê năm 2024, tổng đàn bò sữa Việt
Nam ước đạt 326.000 con, sản lượng sữa tươi đạt 1,21 triệu tấn. Nếu tính khoảng
45% là bò cái vắt sữa, năng suất bình quân đạt 8.180 kg/bò vắt sữa/năm.

Theo ông Dũng, Việt
Nam không có ngành chăn nuôi bò sữa truyền thống và cũng không có giống bò sữa
bản địa chuyên dụng. Các giống hiện nay đều nhập khẩu. Trước năm 2010, hơn 80%
đàn bò sữa cả nước là bò lai HF (F1, F2, F3), bò HF thuần chỉ dưới 20%. Từ năm
2010 đến nay, trên 50% đàn bò là bò HF thuần và bò lai HF đã tiệm cận thuần.
TIÊU THỤ SỮA TẠI VIỆT NAM CHỈ BẰNG ¼ THẾ GIỚI
Mức tiêu thụ sữa của Việt Nam còn rất thấp.
Hiện bình quân mỗi người Việt chỉ tiêu thụ 24 lít/năm, trong khi thế giới đạt
200–250 lít/người/năm, New Zealand đạt 476 lít/người/năm. Việt Nam thấp hơn mức
tiêu thụ sữa bình quân của châu Á tới 72% và thấp hơn thế giới 77%.

Ông Lê Việt Hải, Phó Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và
Thú y TP. Hồ Chí Minh, cho biết thành phố từng là trung tâm lớn của ngành bò sữa,
đóng góp quan trọng cho nguồn cung sữa tươi trong nước. Tuy nhiên, đàn bò sữa
đã giảm mạnh từ 117.000 con năm 2015 xuống còn 37.288 con năm 2025, giảm
68,19%. Trong giai đoạn 2016–2025, sản lượng sữa giảm bình quân 7,72%/năm.
Nguyên nhân do đô thị hóa thu hẹp quỹ đất, chi phí sản xuất tăng cao, cạnh
tranh mạnh từ sữa nhập khẩu giá thấp, khiến nhiều hộ nhỏ lẻ không còn khả năng
duy trì.
Để phục hồi, ông Hải đề xuất cần ban hành Chương trình quốc
gia về phát triển ngành sữa bền vững, đồng thời hoàn thiện hệ thống chính sách
về điều kiện sản xuất – kinh doanh, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm sữa. Việc
chuẩn hóa quản lý giống bò sữa là yếu tố quan trọng để xây dựng đàn giống chất
lượng cao. Chương trình sữa học đường cũng cần được đẩy mạnh, sử dụng 100% sữa
tươi sản xuất trong nước, vừa cải thiện dinh dưỡng trẻ em, vừa tạo thị trường ổn
định cho nông hộ.

TS. Phùng Quang Trường, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Bò và Đồng cỏ Ba Vì, cho biết Ba Vì hiện chiếm khoảng 60% đàn bò sữa của Hà Nội.
Số lượng bò tại đây biến động qua các năm, từ 9.300 con năm 2015 lên 11.380 con
năm 2024. Năng suất bình quân cũng tăng từ 4.600–4.800 kg/chu kỳ 305 ngày lên
5.200–5.300 kg/chu kỳ. Tuy nhiên, giá thu mua sữa tươi vẫn ổn định ở mức
12.000–14.000 đồng/kg, trong khi chi phí thức ăn ngày càng cao, lợi nhuận của
nông hộ bị thu hẹp.
Ông Trường phân tích, nguồn thức ăn thô xanh phụ thuộc
mùa vụ, giá thức ăn tinh tăng cao, trong khi nhiều hộ vẫn dựa vào kinh nghiệm,
chưa ứng dụng kỹ thuật mới. Thị trường tiêu thụ sữa phụ thuộc vào doanh nghiệp
thu mua, nông hộ ít có tiếng nói trong đàm phán giá, dẫn tới rủi ro kinh tế.
Công tác thú y và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được chú trọng đúng mức.
Trước thực tế trên, ông Trường đề
xuất cần cải tạo giống bằng tinh bò cao sản, xây dựng ngân hàng tinh phôi tại địa
phương, hỗ trợ trồng cỏ, ngô sinh khối, cây họ đậu, đồng thời mở rộng tín dụng
ưu đãi, bảo hiểm chăn nuôi. Tổ chức tập huấn kỹ thuật, hình thành hợp tác xã
chăn nuôi để tăng sức cạnh tranh và đảm bảo đầu ra ổn định.

Ông Trần Hoàng An, Hợp tác xã nông nghiệp Evergrowth (Cần
Thơ), chia sẻ hợp tác xã bao tiêu 100% sản lượng sữa của xã viên, đồng thời cung cấp dịch
vụ đầu vào, khám bệnh cho bò, hướng dẫn kỹ thuật. Tuy nhiên, khó khăn lớn
là chất lượng sữa và giá thu mua hoàn toàn do doanh nghiệp chế biến quyết định,
tiêu chí kiểm tra thường xuyên thay đổi, khiến nông dân bị động.
Vì vậy, ông An kiến
nghị Nhà nước cần có cơ sở kiểm soát trung gian phân tích mẫu sữa, quy định rõ
thiết bị, tiêu chuẩn kiểm tra; quy hoạch vùng chăn nuôi cụ thể; quy định số lượng
bò tối thiểu/hộ; chuẩn hóa giống; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
nguồn thức ăn xanh, TMR hoàn chỉnh để giảm chi phí cho nông hộ.
CẦN SỰ HỢP TÁC GIỮA DOANH NGHIỆP LỚN VÀ NÔNG HỘ
Ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH, cho biết
doanh nghiệp đã tiên phong đầu tư phát triển sữa tươi sạch từ năm 2008, góp phần
nâng mức tiêu thụ bình quân đầu người từ 12 lít lên khoảng 36 lít/năm. Hiện, tỷ
lệ sữa tươi nguyên liệu trong sản phẩm sữa dạng lỏng đạt 60%. Tập đoàn đặt mục
tiêu đến 2030 nâng tỷ lệ này lên 100%, đồng thời tăng tổng đàn bò sữa gần gấp
đôi, đạt khoảng 1,2 triệu con.
Để thực hiện được mục tiêu này, ông Hải cho rằng cần sự hợp tác giữa doanh nghiệp
lớn và nông hộ, cùng chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, hỗ trợ nông dân tham
gia chuỗi sản xuất công nghệ cao để đưa ngành chăn nuôi bò sữa tiến lên.

Tốc độ tăng đàn bò sữa và sản lượng sữa tươi nguyên liệu đã giảm mạnh
sau giai đoạn 2010–2015. Lượng sữa nhập khẩu ngày càng tăng, trung bình
8–12%/năm”.
Nêu rõ về các thách thức hiện nay, TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, cho biết nhận thức về giá trị dinh dưỡng sữa còn hạn chế; quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chưa minh bạch; quản lý sữa nhập khẩu bất cập; giá thành sản xuất trong nước cao do chính sách chưa phù hợp; thói quen tiêu dùng sữa của người Việt chưa phổ biến; tỷ lệ lớn sữa nước vẫn sản xuất từ sữa bột hoàn nguyên.
Để đạt mục tiêu đến 2045, sản lượng sữa
bình quân/người đạt trên 100 kg, sữa tươi trong nước chiếm trên 60%, TS.Dương cho rằng cần thống
nhất nhận thức và trách nhiệm của người làm chính sách, người chăn nuôi và người
tiêu dùng. Đồng thời, khuyến khích phát triển rộng mô hình thâm canh trồng cỏ,
cây thức ăn phục vụ chăn nuôi bò sữa, dê sữa – một hướng đi bền vững và có thu
nhập cao.

Tại tọa đàm, PGS.TS. Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng
Cục Chăn nuôi, cho biết ngành đã có hệ thống chính sách khá đầy đủ: Luật Chăn
nuôi 2018, Chiến lược phát triển chăn nuôi 2021–2030, tầm nhìn 2045, cùng 5 đề
án trọng tâm về giống, thức ăn, chuồng trại – xử lý chất thải, giết mổ – chế biến,
khoa học – công nghệ; Nghị định 106 và Nghị định 116 hỗ trợ hiệu quả; Luật Đất đai
2024 lần đầu ghi nhận đất chăn nuôi tập trung.
Tuy nhiên, tổng đàn và sản lượng bò sữa vẫn tăng chậm,
không đạt mục tiêu 2025, do khó khăn về đất đai, nhu cầu tiêu dùng hạn chế, xu
hướng giảm chăn nuôi nông hộ và ít người trẻ tham gia. Trong khi đó, các tập
đoàn lớn như Vinamilk, TH muốn mở rộng nhưng vướng thủ tục đất đai.
Theo PGS.TS. Phạm Kim Đăng, bò sữa là ngành hàng hiếm hoi có liên kết chuỗi hoàn chỉnh, nhưng cần nông dân
chuyên nghiệp hơn, đảm bảo chất lượng và ổn định nguồn cung. Cần truyền thông
rõ ràng để phân biệt sữa tươi tiệt trùng và sữa hoàn nguyên, khuyến khích tiêu
dùng nội địa.
Về giống, ông đề xuất công nhận giống HF tại Việt Nam, áp
dụng công nghệ chọn lọc hiện đại để chủ động nguồn giống thay vì phụ thuộc nhập
khẩu. Trong bối cảnh đất đai hạn chế, định hướng ngành sữa không chỉ tăng số lượng
mà phải chú trọng nâng cao năng suất, giá trị và chất lượng, học theo kinh nghiệm
các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch.
-Chu Khôi