Tăng trưởng tín dụng bứt tốc
Tính đến cuối tháng 6/2023, tín dụng toàn hệ thống ghi nhận mức tăng trưởng 4,03%, thấp hơn đáng kể so với mức tăng trưởng 9,35% cùng kỳ năm 2022, do nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp và cá nhân yếu đi trong bối cảnh lãi suất cao, đơn hàng suy giảm, các thị trường đầu tư tài sản không thuận lợi.
Đồng thời, tỷ trọng tín dụng bán lẻ đã giảm từ mức 47% cuối năm 2022 xuống 46% tổng dư nợ tại thời điểm cuối Q1/2023, khi các nhu cầu mua nhà để ở, mua ô tô, đầu tư tài sản đều suy giảm.
Với dư địa cho vay toàn hệ thống dồi dào, VCBS cho rằng việc Ngân hàng Nhà nước phân bổ hết room tín dụng ngay trong tháng 7/2023 sẽ giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023.
Nhóm phân tích dự báo, trong nửa cuối năm 2023, việc lãi suất hạ nhiệt sẽ tạo động lực tăng cho nhu cầu tín dụng và kỳ vọng sẽ kéo tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành cải thiện mạnh mẽ so với nửa đầu năm 2023. Dẫu vậy, tăng trưởng tín dụng được dự báo sẽ đạt khoảng 12% trong năm 2023, do lãi suất cho vay ở mức cao và sức khoẻ tài chính của khách hàng suy giảm.
Loạt chính sách hỗ trợ
Liên quan đến tín dụng bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp, VCBS nhận định tình hình đã bớt tiêu cực trong ngắn hạn nhờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành.
Theo đó, Nghị định 08 của Chính phủ bổ sung quy định đàm phán kéo dài thời hạn trái phiếu góp phần giúp doanh nghiệp giảm áp lực thanh toán trái phiếu đến hạn, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn trong ngắn hạn;
Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước cho phép ngân hàng mua lại trái phiếu đã bán trong vòng 12 tháng;
Nghị quyết 33 ban hành đã tạo điều kiện giải ngân cho nhóm doanh nghiệp BĐS có tài chính tốt, có khả năng triển khai dự án đặc biệt là nhà ở xã hội,…
Lãi suất hạ nhiệt
Về lãi suất, sau khi NHNN thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trung bình toàn hệ thống đến cuối tháng 6/2023 ghi nhận giảm 1,1 – 1,3%/tùy kỳ hạn, so với thời điểm cuối năm 2022 và dự báo tiếp tục giảm nhẹ 0,5 – 0,7% tới cuối năm, giúp chi phí huy động của các ngân hàng giảm xuống.
Trong khi đó, lãi suất cho vay đã ghi nhận giảm khoảng 1% tại các khoản vay phát sinh mới; tuy nhiên, thời điểm giảm của các khoản vay hiện hữu sẽ có độ trễ 3-6 tháng so với lãi suất huy động.
“Mặt bằng lãi suất đang hạ nhiệt trong nửa cuối quý II/2023 và kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm trong nửa cuối năm 2023”, VCBS cho hay.
Trạng thái dư thừa thanh khoản tăng lên
Về thanh khoản, đến cuối tháng 6/2023, huy động từ khách hàng tăng 3,99%, gần tương đương mức tăng trưởng tín dụng 4,03%.
VCBS cho rằng, tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm giúp cho thanh khoản hệ thống chịu mức áp lực thấp. Các chỉ số liên quan như: Tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR), vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn hiện duy trì ở mức an toàn. Trong đó, các ngân hàng có nguồn tiền gửi dồi dào từ KBNN là Vietcombank, BIDV và VietinBank được hỗ trợ thêm thanh khoản mở rộng dư địa cho vay nhờ Thông tư 26 sửa cách tính tỷ lệ LDR được áp dụng từ cuối năm 2022.
Tỷ lệ CASA toàn ngành
cải thiện
Về thu hút tiền gửi không kỳ hạn (CASA), VCBS cho biết, toàn hệ thống ngân hàng ghi nhận tỷ lệ CASA giảm mạnh xuống 17,6% vào quý I/2023 do lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tăng nhanh hấp dẫn dòng tiền chảy ra khỏi tài khoản thanh toán, cùng với việc các doanh nghiệp rút tiền phục vụ nhu cầu về vốn hoạt động và thực hiện thanh toán các nghĩa vụ tài chính, trong đó có mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn.
Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn giảm xuống 0,29% từ mức đỉnh 0,41% trong tháng 10/2022, hiện tương đương mức trước dịch Covid, giúp chi phí CASA giảm về mức thấp.
“Các ngân hàng ghi nhận lượng khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào như: Vietcombank, MBB, Techcombank,… sẽ có được nguồn vốn huy động dồi dào hơn và và duy trì lợi thế chi phí vốn thấp. Chúng tôi cho rằng việc xu hướng lãi suất hạ nhiệt sẽ giúp cho tỷ lệ CASA toàn ngành cải thiện kể từ nửa sau của năm 2023”, VCBS nhận định.
Áp lực thu hẹp NIM
giảm bớt
VCBS dự báo NIM sẽ tiếp tục thu hẹp trong quý II/2023 khi nguồn vốn huy động giá cao vẫn chưa được hấp thụ hết, đồng thời với việc nguồn vốn giả rẻ CASA giảm mạnh.
Nhận định cho nửa cuối năm, VCBS cho rằng, áp lực thu hẹp NIM sẽ hạ thấp, tuy nhiên mức độ cải thiện phân hóa giữa các nhóm ngân hàng, cụ thể: Nhóm 4 NHTM nhà nước NIM duy trì mức thấp do áp lực giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế với các gói vay ưu đãi quy mô lớn từ đầu 2023; nhóm ngân hàng tư nhân có tập khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào có NIM tăng nhanh nhờ tỷ lệ CASA và tín dụng bán lẻ hồi phục khi mặt bằng lãi suất giảm dần; nhóm ngân hàng nhỏ thiếu hụt về thanh khoản trong giai đoạn trước, NIM sẽ cải thiện rõ rệt khi các khoản tiền gửi lãi suất cao dần đáo hạn.
Nhìn chung, VCBS dự báo NIM của toàn ngành sẽ chậm lại xu hướng giảm và có khả năng cải thiện trong nửa cuối năm 2023 nhờ lãi suất huy động giảm.
Thu nhập ngoài lãi sụt giảm
Theo VCBS, thu nhập ngoài lãi cho thấy sự sụt giảm hầu hết ở các hoạt động chính. Trong quý I/2023, thu nhập ngoài lãi chiếm trung bình 20% trong cơ cấu thu nhập của các ngân hàng, giảm 21,7% so với cùng kỳ khi các hoạt động dịch vụ, đầu tư chứng khoán, thu hồi nợ xấu ngoại bảng đều gặp khó khăn.
Trong đó, thu nhập từ bán chéo bảo hiểm (chiếm ~30% thu nhập dịch vụ) bị ảnh hưởng do việc các cơ quan quản lý đẩy mạnh hoạt động thanh kiểm tra và thu nhập của người dân giảm sút. Sau 4 tháng đầu năm, doanh thu khai thác mới qua kênh bancassurance toàn thị trường ghi nhận giảm 38% so với cùng kỳ năm trước, theo đó lãi từ phí bảo hiểm cả năm dự báo giảm 10-15% .
Ngoài ra, một số ngân hàng sẽ tiếp tục ghi nhận 1 phần phí Upfront cho hợp đồng bancassurance độc quyền đã ký kết (VCB, ACB, CTG, MSB, STB, VPB, LPB). Thị trường ghi nhận hợp đồng bancassurance gia hạn của VIB trong Q2/2023 và đang kỳ vọng thương vụ ký kết mới của HDB trong 2023-2024.
Bên cạnh đó, thu nhập từ đầu tư kinh doanh chứng khoán và đầu tư trái phiếu chính phủ kỳ vọng thuận lợi hơn kể từ Q2/2023.
Để gia tăng thu nhập ngoài lãi, nhóm phân tích cho rằng xu hướng toàn ngành là tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường hiệu quả quản trị, tiết giảm chi phí hoạt động để duy trì lợi nhuận và có dư địa giảm tiếp lãi suất.
Nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro tiếp tục tăng
Về chất lượng tài sản, VCBS cho biết nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro tiếp tục tăng. Vào thời điểm cuối quý I/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng lên 1,9% từ mức 1,6% cuối 2022, tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng tăng lên 2,1%. Tỷ lệ nợ ngoại bảng VAMC ở mức 1,1%. Dù vậy, chi phí tín dụng cũng tăng chậm lại khi các ngân hàng tích cực trích lập trước thời hạn cho các khoản nợ xấu tiềm tàng trong các quý trước.
Theo VCBS, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và mức trích lập dự phòng dự kiến sẽ chưa tăng đột biến trong năm 2023 nhờ Nghị định 08 hỗ trợ gia hạn trái phiếu doanh nghiệp và Thông tư 02 cho phép tái cơ cấu các khoản vay. Tuy nhiên, hoạt động xử lý nợ xấu tiếp tục gặp khó khăn do thị trường bất động sản đóng băng và bất động sản là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay.
VCBS dự báo, rủi ro nợ xấu có thể tăng trở lại trong năm 2024 và có sự phân hóa, cụ thể: Nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải; nhóm ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp cao và có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ xấu và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024.
“Trong bối cảnh nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro tiếp tục tăng, việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực từ cuối năm 2023 đặt ra nhu cầu cấp thiết tiến tới xây dựng Luật xử lý nợ xấu sẽ là cơ chế giúp các ngân hàng khoanh nợ xấu, đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản tồn đọng và duy trì tỉ lệ nợ xấu nội bảng dưới mức 3%”, nhóm phân tích đánh giá.
Lợi nhuận giảm tốc
và phân hóa
Với những đánh giá nêu trên, VCBS dự báo lợi nhuận trước thuế toàn ngành Ngân hàng giảm tốc trong năm 2023 với tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 10%, trong đó có sự phân hóa về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng.
Ngoài ra, lợi nhuận tiếp tục có sự phân hóa mạnh trong 2024, một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm trong năm 2024 trong trường hợp thị trường bất động sản và tình hình vĩ mô trên thế giới tiếp tục xấu đi khiến tín dụng chậm lại và khả năng trả nợ của khách hàng khó hồi phục, đồng thời với việc các thông tư và chính sách hỗ trợ hết hiệu lực.