Room tín dụng đã phát huy hiệu quả
Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Vietnam, room tín dụng được NHNN sử dụng như một chiếc “van” để kiểm soát cung tiền ra nền kinh tế.
Nhìn lại bài học kinh nghiệm trước đây, khi tín dụng tăng trưởng rất nhanh, có những giai đoạn tăng trưởng bình quân cả hệ thống trên 30%/năm, tỷ lệ tín dụng/GDP cũng tăng nhanh dẫn tới nhiều hệ luỵ và rủi ro đối với hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Bởi lẽ, khi các nhà băng chạy đua cho vay, chất lượng khoản vay bị ảnh hưởng, nợ xấu gia tăng.
Có thể thấy, từ khi NHNN sử dụng room tín dụng trong điều hành, tăng trưởng tín dụng hàng năm đã được kiểm soát chỉ còn 12% -14% trong những năm gần đây, vừa đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế.

Room tín dụng đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua
Đồng quan điểm, TS. Châu Đình Linh, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh khẳng định, công cụ room tín dụng đã phát huy rất tốt vai trò giúp NHNN điều hành một cách rất linh hoạt, có những tiêu chí rõ ràng để phân bổ tín dụng cho các nhà băng như dựa trên quy mô, chất lượng tài sản, tuân thủ các quy định… Trong bối cảnh sức khỏe các ngân hàng còn phân hóa rõ nét, nếu không có công cụ này, cơ quan điều hành khó khăn hơn trong việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng cũng như chất lượng tín dụng. Không thể chắc chắn việc các nhà băng không chạy theo lợi ích để tăng trưởng tín dụng. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển tăng trưởng nóng, gây mất ổn định trong hệ thống, nguy cơ dẫn tới nợ xấu là rất lớn.
Bên cạnh đó, room tín dụng còn giúp NHNN kiểm soát lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Theo đó, lạm phát cũng được kiểm soát một cách chủ động, góp phần ổn định giá trị đồng tiền.
Thực tế thời gian qua, trước tình hình của kinh tế trong và ngoài nước, cơ quan điều hành cũng đã thể hiện sự linh hoạt trong điều hành, lắng nghe thị trường, nền kinh tế, doanh nghiệp. Cụ thể, năm 2024, thay vì cấp từng đợt như những năm trước đó, NHNN đã giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm cho các ngân hàng. Mức room tín dụng được cấp cho mỗi ngân hàng dựa trên mức điểm về sức khỏe tài chính của ngân hàng đó. Nhờ đó, các ngân hàng chủ động hơn trong việc lập kế hoạch tín dụng, thay vì chờ đợi NHNN phân bổ.
Ngoài ra, NHNN đã có tới 2 lần nới room tín dụng trong năm đối với những ngân hàng có mức tăng trưởng tốt. Ngược lại, những ngân hàng tăng trưởng thấp bị “cắt” room. Một số ngân hàng tham gia nhận chuyển giao bắt buộc các tổ chức tín dụng yêu kém cũng được cấp thêm room theo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2024.
Đối với năm 2025, bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ vào thực tế diễn biến của thị trường, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa cũng như các chính sách vĩ mô khác. Theo đó, cuối năm 2024, NHNN đã có văn bản gửi các TCTD thông báo công khai, minh bạch về nguyên tắc giao tăng trưởng tín dụng năm 2025 để các TCTD chủ động triển khai thực hiện.
Mức giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của TCTD căn cứ kết quả chấm điểm xếp hạng năm 2023 theo quy định tại Thông tư 52/2018/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung) nhân với hệ số áp dụng chung cho các ngân hàng. Theo đó, NHNN dự kiến tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2025 khoảng 16% và có điều chỉnh theo diễn biến tình hình kinh tế.
Đồng thời, NHNN tiếp tục triển khai lộ trình hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc điều hành phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD theo Nghị quyết số 62/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội.
Kết quả là sau khi thực hiện các giải pháp quyết liệt và đồng bộ, tính đến ngày 26/6, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 16,9 triệu tỷ đồng, tăng 8,3% so với cuối năm 2024. So với cùng kỳ của năm 2024 (cuối tháng 6/2024) tín dụng tăng 18,87%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2023 trở lại đây. Cơ cấu tín dụng phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu tín dụng của người dân và doanh nghiệp.
Cần phải nghiên cứu lộ trình phù hợp
Theo các chuyên gia, ý kiến đề nghị bỏ công cụ room tín dụng đã được đặt ra từ rất lâu, nhưng có thể khẳng định rằng, thời điểm này với đặc điểm của nền kinh tế phụ thuộc phần lớn vào nguồn vốn từ ngân hàng, room tín dụng vẫn là một công cụ hiệu quả để kiểm soát cung tiền.
Ông Lê Duy Bình cho rằng, giả sử nếu không có hạn mức về tăng trưởng tín dụng, tình trạng tăng trưởng nóng về tín dụng sẽ dễ xảy ra như giai đoạn trước đây. Tín dụng tăng nóng, gấp nhiều lần tốc độ tăng trưởng GDP, tiềm ẩn nguy cơ giảm chất lượng tín dụng, gia tăng nợ xấu, từ đó tiềm ẩn các rủi ro và tác động tiêu cực đối với hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Đã có rất nhiều tổ chức quốc tế cảnh báo dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã ở mức cao hiện đã lên tới 134%. Đây là mức cao khi so sánh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, rất cần một công cụ đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP. Ngoài ra, gia tăng tín dụng quá nhanh cũng không khuyến khích sự phát triển của các kênh dẫn vốn khác như thị trường trái phiếu doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, việc không có room tín dụng cũng sẽ dễ dẫn tới cuộc đua cho vay, kéo theo đua huy động vốn, dẫn tới việc mặt bằng lãi suất tăng cao như một số giai đoạn trước đây lãi suất huy động đã có lúc lên tới 13-14%/năm.
Do đó, theo TS. Lê Duy Bình về lâu dài có thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng và sử dụng các công cụ khác, nhưng chỉ có thể làm vậy khi các điều kiện của thị trường đã chín muồi và khi chính sách tiền tệ không còn đồng thời phải đạt được nhiều mục tiêu trong cùng một thời điểm như hiện nay. Mặt khác, nếu bỏ room tín dụng, nhất định phải sử dụng các công cụ điều hành khác để đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế phù hợp với quy mô GDP, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, và đảm bảo chất lượng tín dụng, hoạt động của các TCTD an toàn.
Chuyên gia kinh tế TS. Châu Đình Linh cũng cho rằng, bỏ công cụ room tín dụng là đúng nhưng phải cân nhắc thận trọng về thời điểm. Cơ quan điều hành phải phân tích kỹ các yếu tố để tìm điểm cân bằng lợi ích và rủi ro.
Nếu muốn bỏ “room” tín dụng, cần phải đáp ứng những điều kiện tiên quyết. Thứ nhất là sự ổn định của kinh tế vĩ mô, lạm phát trong tầm kiểm soát. Thứ hai là sức khoẻ của hệ thống ngân hàng đồng đều, đảm bảo thực hiện tốt việc tái cơ cấu các TCTD, đáp ứng các chuẩn mực quản trị rủi ro như Basel II, III. Thứ ba, NHNN tăng cường năng lực để giám sát và can thiệp kịp thời trong vấn đề tăng trưởng và kiểm soát chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, cần phát triển thị trường vốn đa dạng hơn, giảm áp lực vốn trung và dài hạn cho hệ thống ngân hàng.