Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư hạ tầng như một trụ cột chiến lược để hiện thực hóa mục tiêu phát triển dài hạn. Do đó, việc huy động vốn tư nhân, đặc biệt là từ các nhà đầu tư quốc tế, trở thành một trong những yếu tố then chốt…
Tại hội thảo “Thúc đẩy đầu tư hạ tầng bền vững tại Việt Nam: Công cụ bảo lãnh tín dụng – Câu chuyện thành công và tiềm năng bứt phá” do PIDG, GuarantCo, Moody’s Ratings và VIS Rating hợp tác tổ chức ngày 24/9, các nhà đầu tư và chuyên gia nhận định: “Để dòng vốn ngoại chảy vào thị trường, Việt Nam cần giải quyết đồng bộ các thách thức từ việc cải cách thể chế, hoàn thiện khung pháp lý đến tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch”.
CẢI CÁCH THỂ CHẾ – ĐỘNG LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG
Ở góc độ chính sách, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cho biết Việt Nam đang thể hiện nỗ lực rất lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trọng tâm hàng đầu là cải cách thể chế, pháp luật và môi trường kinh doanh, nhằm tạo thuận lợi hơn cho đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, một giải pháp quan trọng khác là hoàn thiện kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên các dự án giao thông trọng điểm, có tính liên vùng và gắn với các đô thị lớn như đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao, hệ thống sân bay và đường sắt đô thị. Đây được coi là giải pháp mang tính chiến lược, dài hạn để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Từ cuối năm 2024, Quốc hội và Chính phủ đã thống nhất mạnh mẽ hơn nữa đối với định hướng này. Thời gian qua, số lượng dự án được Quốc hội phê duyệt ngày càng nhiều, vừa kéo theo khối lượng công việc sửa đổi luật pháp, vừa gắn với việc ban hành nghị quyết về đầu tư.
Điểm mới đáng chú ý là mỗi khi Quốc hội phê duyệt dự án lớn, thường đi kèm với việc sửa đổi thể chế, tháo gỡ cơ chế hoặc áp dụng chính sách đặc thù để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả triển khai. Cùng với đó, các luật quan trọng như Luật Đường sắt, Luật Đầu tư công cũng được sửa đổi để tạo cơ chế huy động vốn, tinh giản thủ tục và đẩy nhanh thực hiện.
“Tuy nhiên, thách thức lớn nhất vẫn là nguồn vốn. Ngoài ngân sách Nhà nước, việc huy động các nguồn lực khác là vô cùng cấp thiết để bảo đảm triển khai hiệu quả, bền vững các dự án hạ tầng. Điều quan trọng nhất hiện nay vẫn là tiếp tục cải cách thể chế để mở rộng không gian cho đầu tư và kinh doanh”, ông Phan Đức Hiếu nhận định.
MINH BẠCH VÀ QUẢN TRỊ LÀ YẾU TỐ THEN CHỐT
Nhìn từ góc độ thị trường, ông Nishant Kumar, Giám đốc Phụ trách Khu vực Châu Á, Private Infrastructure Development Group (PIDG), cho rằng Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển thị trường vốn, đặc biệt là nền móng cho tài chính cơ sở hạ tầng bền vững.
Theo ông Nishant Kumar, ước tính Việt Nam cần hơn 600 tỷ USD đầu tư vào cơ sở hạ tầng đến năm 2040, trong đó khoảng 100 tỷ USD dự kiến còn thiếu so với khả năng huy động.
“Để thu hẹp khoảng cách này, việc nâng cao tín dụng không chỉ là điều nên có mà là điều thiết yếu. Đây là một công cụ giúp các nhà phát hành tiếp cận nguồn tài chính dài hạn và đồng thời là cầu nối đưa nhiều nhóm nhà đầu tư khác nhau vào thị trường, những người mà nếu không có công cụ này sẽ không có cơ hội tham gia các giao dịch hạ tầng trong nước”, ông Nishant Kumar cho biết.
Dưới góc độ nhà đầu tư, ông Roland Janssens, Giám đốc Điều hành Ninety One/Emerging Asia and Africa Infrastructure Fund, nhận định trong bối cảnh hiện nay, thị trường và khách hàng đều kỳ vọng các dự án phải được thiết kế, triển khai chắc chắn, minh bạch, có khung pháp lý rõ ràng và tuân thủ chuẩn mực quốc tế.
Theo ông Roland, việc hoàn thiện quy định, tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương, xử lý thủ tục nhanh gọn và công bằng, đồng thời đẩy mạnh truyền thông sẽ giúp củng cố niềm tin rằng đây là cơ hội đầu tư đáng tin cậy.

Từ kinh nghiệm tại nhiều nền kinh tế mới nổi ở châu Á và châu Phi, ông Roland nhấn mạnh môi trường pháp lý, năng lực quản lý cùng sự công khai, rõ ràng của chính quyền sở tại là yếu tố then chốt để thu hút vốn. Điều này không chỉ liên quan đến quy chuẩn kỹ thuật về môi trường – xã hội, mà còn gắn với chứng chỉ quốc tế, quản trị doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý tài chính và tiền tệ.
“Đối với nhà đầu tư nước ngoài, yêu cầu cũng sẽ có những điểm khác với nhà đầu tư trong nước. Họ quan tâm đến việc đưa vốn vào và rút vốn ra dễ dàng, nhanh chóng, bằng đồng tiền nào và mức độ an toàn của quá trình đó. Do đó, sự phát triển của thị trường vốn, khả năng chuyển đổi ngoại tệ, quản lý tỷ giá và sự minh bạch trong hệ thống ngân hàng cũng trở thành những yếu tố quan trọng không kém”, ông Roland chia sẻ.
Liên quan đến vấn đề xây dựng môi trường đầu tư tại Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam, ông Phan Đức Hiếu cho biết sẽ cần những quy định cởi mở hơn so với khung pháp lý thông thường. Ví dụ, liên quan đến vấn đề bảo vệ nhà đầu tư, cần làm rõ quyền tiếp cận và sử dụng nguồn vốn; hay việc sử dụng song song tiếng Anh và tiếng Việt trong trung tâm tài chính cũng rất quan trọng, bởi đây là nền tảng tri thức và kết nối quốc tế. Đồng thời, các quy định có thể được thiết kế đồng bộ, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế.
-Minh Huy