

Năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu xuất khẩu tăng từ 10-12%. Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động như hiện nay, ông đánh giá như thế nào về mục tiêu này?
Xuất khẩu tăng 14,3% và lần đầu vượt mốc 400 tỷ USD là điểm sáng nổi bật của bức tranh kinh tế năm 2024. Tuy nhiên, mức tăng 14,3% này chủ yếu đến từ tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ (tăng 23,3%) và EU (tăng 19,3%). Thành tích này rất khó lặp lại bởi nhu cầu tại cả EU và Hoa Kỳ đều đang có biểu hiện yếu đi. Xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường lớn thứ hai, cũng trì trệ một cách đáng ngại.
Sau nhiều năm tăng trưởng chậm dần, xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2024 đã giảm 1,1%. Với những khó khăn mà kinh tế Trung Quốc đang gặp phải, khả năng tăng trưởng xuất khẩu đột biến sang Trung Quốc trong năm 2025 là không lớn. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng 10-12% đặt ra cho xuất khẩu năm 2025 thực sự là thách thức rất lớn.

Tổng thống Trump đã tuyên bố áp thuế (bổ sung) 25% với hàng hóa từ Canada và Mexico (đang hoãn áp dụng một tháng) và 10% với hàng hóa từ Trung Quốc. Ngoài ra, ông Trump đã tăng thuế nhập khẩu thép và nhôm lên mức 25%, “không có ngoại lệ hoặc miễn trừ”. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam cho rằng đây là cơ hội cho xuất khẩu tăng tốc vào thị trường Hoa Kỳ, quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?
Về nguyên tắc, khi nước khác bị Hoa Kỳ đánh thuế mà Việt Nam lại không bị thì đơn hàng có thể dịch chuyển sang Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó còn tùy thuộc vào việc Việt Nam có sản xuất mặt hàng có liên quan hay không và mức chênh lệch thuế cụ thể là bao nhiêu.
Trong trường hợp Trung Quốc, tôi không nghĩ mức chênh 10% là đủ lớn để đơn hàng dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Với Canada và Mexico thì mức chênh là đủ lớn, nhưng liệu Việt Nam có sản xuất được những mặt hàng mà Canada và Mexico đang bán vào Hoa Kỳ hay không? Tóm lại, cơ hội là có nhưng không lớn đến mức giúp ta “tăng tốc” xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Chưa kể việc “tăng tốc” này có thể dẫn đến những hệ quả khó lường, lợi bất cập hại.
Với thép và nhôm, từ năm 2018 Việt Nam vẫn phải chịu thuế nhập khẩu bổ sung ở mức 25% và 10%. Mức thuế bổ sung này được ông Trump áp dụng trong nhiệm kỳ đầu, sau đó được ông Biden duy trì. Tuy nhiên, một số nước được miễn trừ nên họ có lợi thế hơn Việt Nam. Nay, nếu ông Trump không cho phép “ngoại lệ” nữa thì đó có thể sẽ là cơ hội. Mặc dù vậy, nếu chúng ta tận dụng để “tăng tốc” thì lại dẫn đến rủi ro phải đối diện với các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp tại Hoa Kỳ. Vì vậy, chúng ta cũng không nên lạc quan quá mức.

Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 4 về thặng dư với Hoa Kỳ, sau Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Mexico. Với chính sách thương mại “nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Donald Trump, theo ông, liệu Việt Nam có phải gánh chịu rủi ro trừng phạt thương mại từ Mỹ?
Ông Trump không thích thâm hụt thương mại. Việt Nam lại thuộc nhóm có thặng dư thương mại cao nhất với Hoa Kỳ nên rủi ro là có. Vào cuối nhiệm kỳ đầu, ông Trump đã từng phát biểu khá nặng nề về thâm hụt thương mại với Việt Nam và ngay sau đó Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đã khởi động điều tra việc Việt Nam “thao túng tiền tệ”. Họ đã kết luận là Việt Nam có “thao túng tiền tệ” nhưng không kịp áp dụng biện pháp trừng phạt, bởi có sự thay đổi chính quyền.
Trong nhiệm kỳ thứ hai này, không có gì bảo đảm là họ sẽ không làm lại. Họ có thể sử dụng lại chiêu bài “thao túng tiền tệ” như lần trước, hoặc áp dụng Khoản 301 của Luật Thương mại năm 1974 (cho phép điều tra, áp dụng các biện pháp chống lại các hành vi mà Hoa Kỳ cho là “bất công” và “ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại của Hoa Kỳ”). Nói chung, họ có nhiều công cụ và rủi ro với Việt Nam là có.
Nếu Việt Nam không bị đánh thuế, hoặc chỉ phải chịu thuế bổ sung như mọi nước khác thì có cơ hội để cạnh tranh và vươn lên chiếm lĩnh thị phần. Tuy nhiên, nếu Việt Nam bị tách ra và phải chịu một mức thuế riêng, cao hơn các nước khác thì xuất khẩu chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng nặng hay nhẹ sẽ tùy vào việc Việt Nam bị phân biệt đối xử ở mức cao hay thấp so với những nước khác.

Như vậy, có cả kịch bản lạc quan thận trọng và kịch bản không lạc quan khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Theo ông, Chính phủ và doanh nghiệp cần có những giải pháp như thế nào khi xảy ra tình huống không mong muốn?
Quan sát cho thấy ông Trump thường sử dụng công cụ thuế nhập khẩu bổ sung để đạt được một mục tiêu nào đó. Vì vậy, nếu nhận thấy Hoa Kỳ có biểu hiện “bất thường”, cần tiếp xúc ngay với họ để tìm hiểu xem họ muốn gì từ chúng ta. Hoa Kỳ hiểu rõ rằng Việt Nam sẽ không cách nào cân bằng ngay được khoản thặng dư hơn 100 tỷ USD nên nếu chúng ta thể hiện thiện chí, tôi nghĩ họ cũng sẽ cân nhắc. Dù sao, hai nước cũng là Đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam lại không xuất khẩu sang Hoa Kỳ những mặt hàng đặc biệt nhạy cảm đối với họ như ô tô hay dược phẩm, thép và nhôm thì có nhưng không nhiều.
Việc Việt Nam xuất siêu sang Hoa Kỳ cũng một phần là do chính sách của chính Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đánh thuế nơi khác cao khiến đầu tư và đơn hàng dịch chuyển về Việt Nam, dẫn đến xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh. Việt Nam chưa khi nào cổ súy cho việc xuất siêu vào Hoa Kỳ, đồng thời cũng hết sức nghiêm túc trong việc phòng chống hành vi “mượn đường” Việt Nam để xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Vào những lúc như lúc này, quan hệ giữa các nhà điều hành của hai nước thường đóng vai trò quyết định. Doanh nghiệp không làm được gì nhiều. Nói họ “đa dạng hóa thị trường” thì dễ nhưng trên thực tế không hề dễ bởi “đa dạng hóa’ đi đâu cho đủ hàng chục tỷ USD? Cho nên, các doanh nghiệp sẽ trông đợi vào động thái của các nhà điều hành. Tôi tin Chính phủ sẽ làm được điều gì đó cho doanh nghiệp, bởi Chính phủ đã từng làm rất tốt trong nhiệm kỳ đầu của ông Trump.

Dù sao các doanh nghiệp cũng không thể và không nên ngồi yên chờ đợi sự hỗ trợ từ Chính phủ. Ông có khuyến nghị gì với họ trong bối cảnh thương mại quốc tế phức tạp và khó đoán định như hiện nay, nhất là các doanh nghiệp đang xuất khẩu sang Hoa Kỳ?
Thứ nhất, thương mại quốc tế đang phải hứng chịu quá nhiều rủi ro, như nhu cầu không ổn định tại các thị trường lớn, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế, sự bất lực của WTO trong giải quyết các vấn đề thương mại toàn cầu, bất ổn địa chính trị cùng chính sách thương mại “nước Mỹ trên hết” của ông Trump. Để ứng phó, có lẽ chỉ còn cách “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Với “bất biến” ở đây là chất lượng và hiệu quả. Một sản phẩm có chất lượng, được sản xuất ra với hiệu quả cao, sẽ luôn có chỗ đứng trong thương mại toàn cầu, bất kể môi trường thay đổi thế nào.
Thứ hai, trong môi trường bất định, vẫn có những khu vực giữ được sự ổn định tương đối, ví dụ như các khu vực có Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Vì vậy, doanh nghiệp nên tìm cách dịch chuyển dần về phía các đối tác FTA này, việc này đòi hỏi sự chủ động rất lớn. “Hãy xách cặp lên và đi”, bởi vẫn còn rất nhiều thị trường đã có FTA với Việt Nam chưa được khai phá đầy đủ, như Philippines, Peru hay Chile. “Hãy đến tận nơi để tìm kiếm cơ hội, đừng chờ Nhà nước giúp đỡ hay khách hàng tự tìm đến với mình”.
Thứ ba, những cơ hội “từ trên trời rơi xuống” thường không bền. Hôm nay Hoa Kỳ mâu thuẫn với Nga nên đơn hàng từ Nga chuyển sang Việt Nam. Nếu Việt Nam coi đó là cơ hội và mở rộng đầu tư thì khi Hoa Kỳ “quay xe” thỏa hiệp với Nga, Việt Nam sẽ làm gì với các khoản đầu tư của mình? Vì vậy, chỉ nên tin vào những cơ hội do chính mình tạo ra, dựa trên kiến thức, kinh nghiệm và năng lực của chính mình.
Với những doanh nghiệp đang xuất hàng vào Hoa Kỳ, rắc rối như hiện nay là ngắn hạn, bởi ông Trump cũng chỉ có 4 năm, tức là không dài hơn thời gian của đại dịch Covid-19. Các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” đã được áp dụng để đi qua thời Covid-19, ví dụ như cắt giảm chi phí hoặc chia sẻ chi phí tăng thêm với khách hàng, có thể được sử dụng lại để đi qua giai đoạn này.

VnEconomy 04/03/2025 07:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 9-2025 phát hành ngày 3/3/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1283
