Trong bối cảnh Việt Nam đang cập nhật Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (NDC 3.0) và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, các khu rừng đặc dụng và phòng hộ tiếp tục giữ vai trò then chốt trong hấp thụ và lưu giữ carbon tự nhiên. Việc bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái rừng được xác định là giải pháp bền vững, mang lại hiệu quả đo đếm được trong ứng phó biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học…
Ngày 8/12/2025, tại Vườn quốc gia Pù Mát (tỉnh Nghệ
An), Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác quản lý rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ năm 2025. Trước đó, ngày 7/12, các đại biểu đã tham gia chuyến
điền dã thực địa tại Vườn quốc gia Pù Mát để khảo sát mô hình quản lý và bảo tồn
tại chỗ.
Hội nghị được tổ chức với sự hỗ trợ của Dự án “Bảo tồn, tài chính bền
vững và phát triển các hệ sinh thái phức hợp tại các khu rừng đặc dụng và phòng
hộ của Việt Nam” (MEPA), do Chính phủ Đức tài trợ và thực hiện bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế của Đức (GIZ) cùng với Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm giai đoạn 2025-2028.
Sự kiện này đã thu hút khoảng 200 đại biểu tham dự, gồm đại diện các bộ, ngành và các khu rừng đặc dụng, phòng hộ trên cả nước. Đây là diễn đàn cấp quốc gia nhằm tổng kết
kết quả quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ trong năm 2025, xác định các ưu tiên
cho năm 2026 và thảo luận định hướng chính sách liên quan đến cơ cấu, tổ chức
quản lý hệ thống khu bảo vệ.
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ NGÀNH LÂM NGHIỆP
Hội nghị khẳng định cam kết tiếp tục bảo vệ rừng và đa
dạng sinh học, phù hợp với Luật Lâm nghiệp, Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt
Nam giai đoạn 2021–2030 (tầm nhìn 2050) và Quy hoạch Lâm nghiệp Quốc gia.
Phát biểu tại hội nghị, TS Trần Quang Bảo, Cục
trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, cho biết hệ thống rừng đặc dụng và rừng
phòng hộ hiện chiếm gần một nửa diện tích rừng cả nước với khoảng 6,9 triệu ha.
Trong đó, hơn 2,2 triệu ha là rừng đặc dụng và gần 4,7 triệu ha là rừng phòng hộ,
đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái quan trọng như rừng trên núi đất, núi đá,
đất ngập nước, rừng ngập phèn và rừng ngập mặn. Đây là nền tảng sinh thái thiết
yếu để bảo tồn đa dạng sinh học, phòng chống thiên tai, bảo vệ đất và nguồn nước,
thích ứng biến đổi khí hậu, đồng thời là cơ sở phát triển du lịch sinh thái và
bảo đảm quốc phòng – an ninh.

Theo Cục trưởng Trần Quang Bảo, năm 2025 có ý nghĩa đặc
biệt khi đánh dấu kết thúc Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững
2021–2025, là năm thứ hai triển khai Quy hoạch lâm nghiệp quốc gia 2021–2030 và
là năm bản lề thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp đến 2030, tầm nhìn
2050. Đây cũng là năm đầu tiên áp dụng mô hình chính quyền địa phương hai cấp,
dẫn tới việc sắp xếp lại mạnh mẽ bộ máy các Ban quản lý rừng đặc dụng và phòng
hộ.
Hiện Việt Nam quản lý 14,87 triệu ha rừng, trong đó có
10,13 triệu ha rừng tự nhiên và 4,74 triệu ha rừng trồng; độ che phủ đạt
42,03%. Theo quy hoạch, đến năm 2030 diện tích rừng đặc dụng sẽ tăng từ 2,2 triệu
ha lên 2,455 triệu ha; số lượng khu tăng từ 176 lên 225 khu; và toàn bộ diện
tích rừng của các chủ rừng là tổ chức phải đạt quản lý bền vững”.
Trong năm 2025, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường
đã ban hành nhiều văn bản quan trọng như Nghị định 131/2025/NĐ-CP, Nghị định
136/2025/NĐ-CP về phân quyền, phân cấp; Nghị định 183/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
156/2018/NĐ-CP; cùng các Thông tư 16, 26, 27/2025. Những văn bản này góp phần
hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao hiệu quả quản lý rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ và bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm.
Tuy nhiên, ông Bảo chỉ ra những thách thức vẫn còn lớn
khi biến đổi khí hậu gây gia tăng cháy rừng, sạt lở; tình trạng khai thác, vận
chuyển lâm sản trái phép, săn bắt động vật hoang dã, lấn chiếm đất rừng vẫn xảy
ra. Trang thiết bị và hạ tầng tại nhiều Ban quản lý còn thiếu, chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
Bước sang năm 2026 – năm đầu tiên của giai đoạn mới,
ngành lâm nghiệp sẽ tập trung rà soát mô hình quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ
sau khi hệ thống tổ chức đã được sắp xếp; triển khai điều chỉnh Quy hoạch lâm
nghiệp quốc gia; chuẩn bị nền tảng pháp lý cho sửa đổi Luật Lâm nghiệp, đặc biệt
về tín chỉ carbon và dịch vụ môi trường rừng. Đồng thời, toàn ngành đặt mục
tiêu phục hồi tối thiểu 15.000 ha rừng đặc dụng và phòng hộ mỗi năm; phát triển
du lịch sinh thái và dược liệu dưới tán rừng; tăng cường nghiên cứu khoa học, hợp
tác quốc tế và ứng dụng công nghệ số trong giám sát rừng”.
VAI TRÒ THEN CHỐT CỦA RỪNG ĐẶC DỤNG VÀ RỪNG PHÒNG HỘ
Tại hội nghị, bà Anja Barth, Cố vấn trưởng, GIZ Việt
Nam, nhấn mạnh vai trò then chốt của các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ khi
được quản lý theo cách tiếp cận dựa trên cảnh quan.
“Sự kết nối liên
vùng giúp tăng cường hiệu quả bảo tồn, nâng cao khả năng chống chịu, duy trì chức
năng hệ sinh thái quy mô lớn và tăng cường khả năng thích ứng của cả thiên
nhiên và con người”, bà Anja Barth khẳng định; đồng thời cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng trong xây dựng hệ thống
rừng đặc dụng – phòng hộ gắn kết, nhờ chiến lược, quy hoạch quốc gia và nỗ lực
của đội ngũ quản lý.

Trong ba năm tới, MEPA sẽ tập
trung vào bốn lĩnh vực: hoàn thiện khung pháp lý quản lý bảo tồn có tính kết nối;
phát triển mô hình phục hồi rừng cùng cộng đồng; thúc đẩy các phương án tài
chính bền vững; nâng cao chất lượng du lịch sinh thái”.
Bà Anja Barth cũng giới thiệu dự án MEPA “Bảo tồn, tài chính bền
vững và phát triển các hệ sinh thái phức hợp tại các khu rừng đặc dụng và phòng
hộ của Việt Nam”, triển khai tại ba điểm: Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, Vườn
quốc gia Xuân Liên và Vườn quốc gia Hoàng Liên.
Bên cạnh đó, Liên minh châu Âu cũng hỗ trợ một dự án
nâng cao năng lực quản lý rừng thích ứng khí hậu và phát triển chuỗi giá trị
lâm nghiệp bền vững, dự kiến khởi động năm 2026 tại 11 địa điểm thuộc 5 tỉnh.
Thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, Cục Lâm
nghiệp và Kiểm lâm cùng các đối tác hướng tới xây dựng hệ thống rừng đặc dụng
có khả năng chống chịu cao, được kết nối hiệu quả và bảo đảm tài chính bền vững,
tiếp tục đóng góp thiết thực cho bảo tồn đa dạng sinh học và sinh kế cộng đồng.
-Chu Khôi




