Chiều 21/11/2025, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông
nghiệp và Môi trường, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với
Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng
dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”.
Ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và
Môi trường, chia sẻ: Tại thời điểm này các tỉnh Khánh Hòa, Đăk Lắk đang trải qua
đợt lũ và ngập lụt khủng khiếp do ảnh hưởng của bão và mưa lũ cực đoan. Nhiều địa
phương ở phía Bắc cũng vừa trải qua những trận ngập lụt lịch sử trên diện rộng. Những hình ảnh mưa, lũ, ngập lụt trên các phương tiện thông tin đại chúng và số
người thiệt mạng, mất tích; con số thiệt hại về tài sản của Nhà nước và Nhân
dân lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng đã chạm đến trái tim của mỗi người dân Việt
Nam, thúc đẩy chúng ta phải suy nghĩ.
PHỐI HỢP VẬN HÀNH LIÊN HỒ CHỨA VẪN LÀ “ĐIỂM MÙ” LỚN
Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa
nước của Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường),
cho biết công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới
khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.
Cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai
trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế.
Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy
ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.
Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.
Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy
đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ
năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hầu hết các địa phương vẫn
quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật,
không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Hệ
thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ
thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định.
Trong khi đó, mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy
luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa
nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp. Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm
mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều
phối thống nhất theo lưu vực. Quy trình vận hành nhiều hồ đã lạc hậu nhưng chưa
được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực.
Khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ
du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ
yếu thủ công. Hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn;
nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu
dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.
Để giải quyết những bất cập này, ông An cho rằng cần thúc
đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ
chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành
tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu
ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa
phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.
Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện
đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân
tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế – kỹ thuật
cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các
địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.
“Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và
công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa
sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu
ngày càng khắc nghiệt”, ông An khẳng định.
CẦN ĐÁNH GIÁ LẠI TỔ CHỨC VẬN HÀNH LIÊN HỒ CHỨA
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng
công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng những đợt mưa lũ dồn
dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự
báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.
Ông Phong nêu câu hỏi trọng tâm: Liệu có nên duy trì mực
nước hồ ở mức dâng bình thường như quy trình hiện hành, hay cần hạ thấp hơn để
tăng dung tích đón lũ trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất thường?
Nhấn mạnh vai trò của dự báo, ông Phong cho rằng hiện nhiều
đơn vị vẫn phụ thuộc vào các mô hình dự báo quốc tế, trong khi các nhà khoa học
đã khuyến cáo cần có mô hình dự báo chuyên dụng cho từng lưu vực hồ chứa.
“Tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m3, trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn lịch sử”
PGS. TS Hồ Sỹ Tâm, Trưởng Phòng Khoa học công nghệ và Hợp
tác quốc tế của Trường Đại học Thủy lợi, cho biết trong số khoảng 7.000 đập tại
Việt Nam, hiện rất nhiều đập đã xuống cấp, khả năng điều tiết lũ không còn đáp ứng
yêu cầu. Phần lớn các đập này nằm ở thượng nguồn, trong khi hạ du là cộng đồng
dân cư hoặc những khu vực đông người sinh sống. Hiểm họa mất an toàn đập xuất
phát từ khả năng hư hỏng và mức độ thiệt hại nếu sự cố xảy ra, từ đó hình thành
rủi ro an toàn đập.
Nhân dịp này, PGS. TS. Hồ Sỹ Tâm giới thiệu Công cụ DRAPT được phát triển
nhằm cung cấp phương pháp đánh giá dựa trên chứng cứ thực địa và xác định thứ tự
ưu tiên đầu tư sửa chữa, nâng cấp đập ở Việt Nam. DRAPT được xây dựng bởi các
chuyên gia an toàn đập và đã được thử nghiệm trên hơn 200 đập trong cả nước.
“Công
cụ này hỗ trợ đánh giá ban đầu về hiện trạng đập thông qua khảo sát hiện trường,
năng lực đập tràn, hậu quả nếu xảy ra sự cố, các dạng hư hỏng tiềm ẩn và mức độ
hiểm họa mất an toàn đập. Kết quả đánh giá cho phép cơ quan quản lý đưa ra quyết
định hợp lý về việc điều tra chuyên sâu hoặc đầu tư công trình bổ trợ để giảm rủi
ro”, ông Tâm khẳng định.




