Để công nghiệp hỗ trợ thực sự trở thành ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược của quốc gia, cần phải có những định hướng và giải pháp đột phá, tập trung giải quyết các nút thắt về năng lực công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và sự đồng bộ trong chính sách…
Theo Bộ Công Thương, sau gần một thập kỷ triển khai Chương trình Phát triển công nghiệp hỗ trợ 2016-2025, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, từ vị thế gia công bị động sang chủ động tham gia và cung ứng trực tiếp cho các tập đoàn đa quốc gia.
HƠN 6.000 DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ THAM GIA VÀO CHUỖI CUNG ỨNG
Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ được khởi động từ Quyết định số 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vào tháng 1/2017, đã tạo ra một “cú hích” chính sách rõ rệt cho các doanh nghiệp. Vị thế của công nghiệp hỗ trợ đã thay đổi, không còn chỉ là ngành “phụ trợ” như cách gọi cũ, mà đang được định hướng trở thành một ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược.
Theo báo cáo tổng kết của Bộ Công Thương, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã ghi nhận những thành tựu đáng kể. Từ con số ban đầu chỉ khoảng vài trăm doanh nghiệp, đến nay Việt Nam đã có hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia vào chuỗi cung ứng.
Về chất lượng, đã có sự chuyển biến tích cực, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đủ năng lực để tham gia vào chuỗi cung ứng và trở thành nhà cung ứng cấp một, cấp hai cho các tập đoàn đa quốc gia lớn như Samsung, Toyota.
Đặc biệt, sự phát triển không chỉ dừng lại ở việc cung ứng cho FDI, mà nhiều doanh nghiệp nội địa đã tự hình thành và phát triển thành doanh nghiệp chuỗi. Ví dụ như Vinfast, với tỷ lệ nội địa hóa đạt được đã trên 60% và dự kiến có thể đạt 80% khi nhà máy pin ở Hà Tĩnh hoàn thành. Hay như Thaco cũng đã hình thành một chuỗi công nghiệp để thu hút các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia.
Sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ cũng ghi nhận hiệu quả. Theo thống kê, có khoảng hơn 2.000 doanh nghiệp được tham gia các khóa đào tạo, gần 700 doanh nghiệp được tham gia học hỏi những mô hình mới và được chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Đồng thời, hơn 86 hội thảo để chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức đã được tổ chức với sự tham gia của hơn 13.000 thành viên.
Tại tọa đàm “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Những bài học và định hướng”, ngày 20/10/2025, bà Bùi Thị Hồng Hạnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, chia sẻ một góc nhìn thực tế: nếu như những năm đầu (khoảng 2011), chỉ có hơn 100 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ được đưa vào Sách trắng của JETRO (Tổ chức Xúc tiến thương
mại Nhật Bản), thì đến năm vừa rồi, con số này đã tăng lên hơn 300 doanh nghiệp, và hầu hết đều là những doanh nghiệp tốt, có đơn hàng xuất khẩu cho FDI và nước ngoài.

Sự thay đổi về chất lượng còn nằm ở sự chủ động của chính các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Thay vì bị động nhận đơn hàng, doanh nghiệp hiện nay đã thận trọng hơn, có mục tiêu cụ thể, xem xét bản vẽ kỹ lưỡng và tương tác ngược lại với đối tác để đề xuất giải pháp công nghệ nhằm đạt quy trình sản xuất nhanh hơn, hiệu quả hơn và giá trị tốt hơn.
Kinh nghiệm thực tiễn từ Công ty Cổ phần Công nghiệp JK, một doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng của Honda, Yamaha, Piaggio gần 20 năm, cho thấy việc giải quyết bài toán công nghệ, đặc biệt dung sai sản phẩm là vấn đề cốt lõi để giảm giá thành.
Ông Vũ Đăng Khoa, Phó Tổng giám đốc Công ty JK, chia sẻ bài học thực tế, để đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của đối tác đa quốc gia, đặc biệt khi nâng cấp từ sản xuất linh kiện xe máy lên ô tô, thậm chí là thiết bị hàng không, đòi hỏi doanh nghiệp phải làm việc trực tiếp với bộ phận nghiên cứu và phát triển (RD) của khách hàng. Việc này giúp “giải bài toán dung sai” và kích thước, từ đó có thể điều chỉnh thiết kế, tránh lối mòn và đạt được khả năng giảm giá thành đáng kể.
Đáng chú ý, JK còn áp dụng cách mời ngay những người làm thiết kế của đối tác (từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ) sang thăm quan dây chuyền sản xuất tại Việt Nam. Từ đó, khi họ quay về, họ đã hình dung và mường tượng được công nghệ sản xuất thực tế, thiết kế ra những sản phẩm phù hợp ngay từ đầu, giảm thiểu đáng kể những vấn đề về chất lượng sau này.
CHÍNH SÁCH ĐỘT PHÁ: TẬP TRUNG CHIẾN LƯỢC VÀ ĐÒN BẨY ĐỊA PHƯƠNG
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn đối mặt với những thách thức nội tại. Bà Bùi Thị Hồng Hạnh chỉ ra sự hạn chế về nguồn nguyên liệu và sự chưa đồng đều về năng lực quản lý, tư duy và kỹ thuật giữa các doanh nghiệp trong nước. Sự thiếu đồng đều này là một rào cản lớn, dẫn đến việc một số công ty lớn của Việt Nam gặp khó khăn khi chuyển giao đơn hàng cho các doanh nghiệp nội bộ do chất lượng chưa đạt, dẫn đến hàng bị lỗi.
Về phía Nhà nước, ông Phạm Văn Quân, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương, thừa nhận, trong giai đoạn 2016-2025, chương trình còn bị dàn trải do “tham vọng quá lớn”. Mục tiêu hỗ trợ hàng trăm doanh nghiệp cải tiến khoa học công nghệ chưa đạt được. Hạn chế lớn là công tác tuyên truyền chưa đủ sức lan tỏa và quy trình còn vướng mắc. Theo số liệu thống kê, gần như hơn 90% doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi từ chương trình hỗ trợ lại là doanh nghiệp FDI, chủ yếu do doanh nghiệp trong nước chưa đạt được tiêu chuẩn.
Để khắc phục, định hướng chiến lược trong giai đoạn tới sẽ tập trung hơn, lựa chọn các ngành công nghiệp chiến lược để đầu tư trọng điểm. Một điểm đột phá là tháo gỡ khó khăn về cơ chế quản lý khoa học công nghệ, với việc Nghị quyết 57-NQ/TW cho phép “chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu và phát triển”, một cơ chế được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Bộ Công Thương cũng đang xây dựng những chương trình lớn như xây dựng chuỗi giá trị và tạo “ổ” chào đón các tập đoàn lớn FDI đầu tư vào Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tham gia sâu hơn. Đặc biệt, dự thảo Luật Công nghiệp trọng điểm đang được xây dựng, trong đó coi công nghiệp hỗ trợ là một trong năm nhóm ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược.
Bên cạnh đó, việc xây dựng một quỹ hỗ trợ tập trung (dự kiến tương đương 1% GDP) sẽ giải quyết vấn đề doanh nghiệp phải chạy nhiều đầu mối để xin ưu đãi, tạo ra một kênh hỗ trợ duy nhất, thuận lợi hơn.
Đồng thời, quy trình để đạt ưu đãi cũng sẽ thuận tiện hơn, được số hóa thủ tục hành chính để doanh nghiệp hoàn toàn có thể nộp hồ sơ online và cấp chứng chỉ online luôn (cấp độ 4). Cùng với đó là việc trao quyền hơn cho Sở Công Thương địa phương, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng tiếp cận chính sách ưu đãi ngay tại địa phương.
-Vũ Khuê