TIẾP TỤC CẬP NHẬT…
Nền kinh tế đang phục hồi trên tất cả các lĩnh vực
Phát biểu khai mạc, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chào mừng sự có mặt đầy đủ của các đại biểu, gửi tới các đồng chí lãnh đạo NHNN, Chủ tịch, Tổng giám đốc ngân hàng thương mại, lãnh đạo các hiệp hội ngành nghề và các đại biểu lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Thủ tướng nêu rõ: Năm 2023, đất nước ta đạt được những kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm; đồng tiền cơ bản ổn định, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách trong kiểm soát.
Ngân sách tiết kiệm được 560 nghìn tỷ đồng để chuẩn bị cải cách tiền lương từ 1/7/2024 và dự kiến tăng mức lương tối thiểu khu vực ngoài nhà nước. An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống người dân được cải thiện; phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh; quốc phòng an ninh được tăng cường; đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt những thành tựu có tính lịch sử.
Đầu năm 2024, các tín hiệu tiếp tục cho thấy nền kinh tế đang phục hồi trên tất cả các lĩnh vực.
Thủ tướng nhấn mạnh, những thành quả này có được là nhờ nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với sự đồng lòng, ủng hộ của người dân, doanh nghiệp. Thủ tướng cảm ơn các doanh nghiệp, ngân hàng đã có những đóng góp rất quan trọng vào thành tựu, kết quả chung của cả nước.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới năm 2024 được đánh giá còn rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, dù kinh tế Việt Nam có khởi sắc, tiến bộ, phục hồi, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức và khó khăn, thách thức có thể đến bất lúc nào.
Do đó, chúng ta không được chủ quan, cần tiếp tục phát huy các thành quả, phát hiện các khó khăn, vướng mắc để cùng nhau tháo gỡ. Thủ tướng nêu rõ, một trong những bài học kinh nghiệm quý báu của đất nước ta là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân, trong đó có doanh nghiệp, là chủ thể làm nên lịch sử, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Tăng trưởng tín dụng 2 tháng đầu năm giảm; lượng tiền gửi còn rất lớn; lãi suất cho vay còn cao
Về chính sách tiền tệ, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo điều hành quyết liệt, đồng bộ, cụ thể, sát thực tiễn. Cách đây hơn 3 tháng (ngày 07/12/2023), Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị với các chủ tịch, tổng giám đốc ngân hàng thương mại bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn về tăng trưởng tín dụng cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngày 05/3/2024, Thủ tướng tiếp tục có Công điện số 18/CĐ-TTg về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024.
NHNN đã cố gắng, điều hành chủ động, linh hoạt, phù hợp, hiệu quả, các doanh nghiệp nỗ lực cơ cấu lại hoạt động phù hợp tình hình, các tổ chức tín dụng cũng chia sẻ để có dòng vốn lưu thông tốt hơn.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận: Tăng trưởng tín dụng 2 tháng đầu năm 2024 giảm so với cuối năm 2023 trong khi lượng tiền gửi còn rất lớn (14 triệu tỷ đồng); lãi suất cho vay vẫn còn cao; nợ xấu có xu hướng tăng; việc xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém còn chậm; một số chương trình tín dụng chưa hiệu quả (như gói 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, trong khi gói 15 nghìn tỷ đồng cho lâm sản, thủy sản lại giải ngân rất nhanh)… (NHNN sẽ có báo cáo đầy đủ).
Vì sao doanh nghiệp kêu thiếu vốn, nút thắt ở đâu, nguyên nhân gì?
Thủ tướng đề nghị quý vị đại biểu và các đồng chí, nhất là Chủ tịch, Tổng Giám đốc các ngân hàng thương mại tập trung thảo luận, đưa ra đáp án, giải pháp cụ thể đối với một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, việc điều hành chính sách tiền tệ, nhất là lãi suất, tỷ giá như thế nào để ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng (khoảng 6-6,5%) và giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế?
Hai là, vì sao doanh nghiệp kêu thiếu vốn, khó tiếp cận vốn tín dụng, trong khi lượng tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư vào hệ thống ngân hàng lại tăng, mặc dù lãi suất huy động liên tục giảm? Nút thắt ở đâu, nguyên nhân là gì, do quy định, do điều hành, do thận trọng hay do cục bộ? (Theo NHNN, đến nay lãi suất tiền gửi bình quân của các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 3,3%/năm, giảm 0,2%/năm so với cuối năm 2023; lãi suất cho vay bình quân của các khoản vay mới ở mức 6,4%/năm, giảm 0,7%/năm so với cuối năm 2023 – nhưng lãi suất đối với các khoản dư nợ hiện còn cao).
Ba là, tình hình cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế, từng ngành, lĩnh vực đã tốt chưa? Đâu là điểm nghẽn, nguyên nhân, biện pháp tháo gỡ khắc phục, đảm bảo việc cung ứng vốn không ách tắc, chậm trễ, không đúng thời điểm? Làm thế nào để cung ứng vốn tín dụng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho sản xuất kinh doanh?
Cần làm gì để tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp?
Bốn là, cần có các giải pháp gì tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân? Đặc biệt là các giải pháp về lãi suất, thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, các biện pháp về bảo lãnh, các biện pháp về truyền thông, công nghệ…?
Năm là, các ngân hàng thương mại cần làm gì để bảo đảm tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng 15% như NHNN đã giao ngay từ đầu năm? Làm thế nào để tiếp tục giảm lãi suất cho vay, để hệ thống ngân hàng cùng chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp?
Sáu là, Chính phủ, NHNN, các bộ, ngành, địa phương cần phải làm gì, cộng đồng doanh nghiệp và người dân cần làm gì để kích cầu đầu tư, tiêu dùng, tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp? Cần có những công cụ gì? Chẳng hạn như Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa?
Cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, đưa đất nước phát triển
Khẳng định những cái được là cơ bản, nhưng còn những khó khăn, vướng mắc, đã làm tốt rồi nhưng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, người dân mong muốn làm tốt hơn và có dư địa, không gian để làm tốt hơn, Thủ tướng đề nghị đại biểu tập trung thảo luận, phát biểu thẳng thắn, không tô hồng, không bôi đen, chỉ rõ những việc đã làm được và chưa làm được; nguyên nhân khách quan, chủ quan, bài học kinh nghiệm; những vấn đề trọng tâm cần giải quyết và đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, NHNN và các bộ, ngành, địa phương, giải đáp được một phần những vấn đặt ra. Sản phẩm của Hội nghị dự kiến sẽ là Chỉ thị hoặc Kết luận của Thủ tướng Chính phủ về nội dung này.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá rách hơn, cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, đưa đất nước phát triển, đi lên, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Đến ngày 29/02/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023
Thay mặt NHNN trình bày báo cáo tại cuộc họp, Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết: Đến cuối năm 2023, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 13,78% so với cuối năm 2022. Do yếu tố mùa vụ của dịp Tết Nguyên đán cùng với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao, đến ngày 29/02/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023. Tuy nhiên, tốc độ giảm của tháng 2 đã chậm lại (-0,05%) so với tháng 1 (-0,6%).
Với thanh khoản dồi dào và còn rất nhiều dư địa tăng trưởng tín dụng, các TCTD hiện có điều kiện thuận lợi để cung ứng vốn cho vay ra nền kinh tế.
NHNN cho biết, mức giảm hiện nay ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế. Có 2 lĩnh vực tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm, đó là tín dụng lĩnh vực BĐS, tăng 0,23% so với cuối năm 2023, tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán, tăng 2,56% so với cuối năm 2023.
Vì sao tín dụng 2 tháng đầu năm tăng trưởng âm?
Về khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân, NHNN cho rằng: Thứ nhất là do kinh tế thế giới diễn biến khó lường, áp lực lạm phát và mặt bằng lãi suất thế giới ở mức cao, đồng USD, giá vàng thế giới diễn biến phức tạp; chênh lệch lãi suất USD-VND,… là những yếu tố tác động tiêu cực lên sự ổn định của tỷ giá VND/USD trong nước, nhất là khi lãi suất VND dự kiến tiếp tục giảm.
Thứ hai là, khó khăn trong việc cấp tín dụng: Tín dụng 02 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng âm là do các vướng mắc và nguyên nhân sau đây:
Về nguyên nhân khách quan: Theo yếu tố thời vụ, nhu cầu vốn tín dụng thường tăng cao vào dịp cuối năm và thời điểm trước Tết nguyên đán dẫn tới 02 tháng đầu năm khó tăng trưởng nhanh quy mô tín dụng.
Cầu và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế ở mức thấp: Nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng hoạt động do sức ép lạm phát, giá cả vật liệu tăng; thiếu đơn hàng; nhiều yếu tố đầu vào, chi phí sản xuất kinh doanh cao nên không có nhu cầu vay vốn; người dân tăng dự phòng và giảm vay chi tiêu; tín dụng BĐS chiếm khoảng 21% tín dụng chung, tín dụng BĐS tăng/giảm cao thường khiến tín dụng toàn hệ thống tăng/giảm.
Một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn; nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô vốn nhỏ, năng lực hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, các giải pháp tăng tiếp cận tín dụng thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa,… chưa phát huy được nhiều hiệu quả.
Khó khăn trong triển khai một số chương trình, chính sách tín dụng như: đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng, các quy định pháp luật liên quan đến dự án nhà ở xã hội (quỹ đất, trình tự, thủ tục mua bán, định giá…) còn nhiều vướng mắc; số lượng dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư rất ít; một số điều kiện đối với người mua nhà không còn phù hợp; đối với các gói cho vay tiêu dùng, thu nhập của người lao động sụt giảm trong bối cảnh thất nghiệp, mất việc làm tăng cao nên không có nguồn để trả nợ dẫn đến cầu tín dụng tiêu dùng giảm; công nhân, người lao động chưa nắm bắt rõ thông tin trong khi các doanh nghiệp, công đoàn cơ sở chưa thật sự chú trọng truyền thông, phổ biến gói vay.
Khả năng huy động vốn trung, dài hạn của tổ chức tín dụng còn thấp so với nhu cầu vốn trung dài hạn của nền kinh tế.
Về nguyên nhân chủ quan, NHNN cho rằng, một số ngân hàng còn thận trọng trong thực hiện cấp tín dụng do nợ xấu tăng. Một số khoản nợ cũ lãi suất cao chậm được điều chỉnh giảm để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân vay vốn.
Một số ngân hàng quy trình thủ tục cho vay vẫn chậm được cải tiến, nhất là thời gian xét duyệt cho vay còn dài, định giá và quyết định tài sản thế chấp còn quá thận trọng.
Việc thực hiện cơ chế tài sản bảo đảm còn thiếu linh hoạt, chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường BĐS đang trầm lắng. Thiếu sự kết nối, tương tác, chia sẻ, hợp tác của khách hàng và ngân hàng trong việc trực tiếp trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn.
Huy động vốn qua cổ phiếu, trái phiếu, vốn FDI tăng thấp, những khó khăn trên thị trường thị trường trái phiếu, BĐS chưa được giải quyết căn cơ, triệt để… nên khiến cho nguồn vốn phục vụ tăng trưởng tiếp tục tập trung vào tín dụng ngân hàng, tỷ lệ Tín dụng/GDP tăng cao (cuối năm 2023 khoảng 133%, tăng so với mức khoảng 125% cuối năm 2022), tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.
Định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới
Để tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN sẽ bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước, tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Một là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung văn bản QPPL nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng như kéo dài thời gian thực hiện Thông tư 02 đến hết năm 2024; hoàn thiện Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 16 phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và thực tiễn thị trường; sửa đổi đồng bộ các Thông tư quy định về hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng để đồng bộ với các quy định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 2024.
Hai là, trong điều kiện kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, lãi suất tiếp tục được điều hành ổn định theo hướng từng bước giảm mặt bằng lãi suất chung trong nền kinh tế; điều hành hài hòa giữa lãi suất và tỷ giá phù hợp với tình hình thị trường, diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục có các giải pháp khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tạo sự hài hòa giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng công bố công khai lãi suất cho vay bình quân.
Ba là, chủ động điều hành tăng trưởng tín dụng nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đúng, trúng mục tiêu, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; mở rộng tín dụng cho sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống, tiêu dùng, tăng cường tín dụng tiêu dùng góp phần hạn chế “tín dụng đen”. Tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả các Chương trình, gói tín dụng.
Thời gian tới, NHNN sẽ phối hợp với Bộ Công an, sử dụng dữ liệu của Đề án 06 để tạo thuận lợi cho vay tiêu dùng, hạn chế “tín dụng đen”. Phối hợp với Bộ Xây dựng, các bộ ngành có liên quan triển khai gói 120.000 tỷ, chương trình 1 triệu căn nhà ở xã hội.
Phối hợp với Bộ KHĐT, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ chế, chính sách hỗ trợ thêm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn. Tiếp tục cùng Bộ KHĐT, Liên minh Hợp tác xã nghiên cứu, có biện pháp hỗ trợ cho mảng lĩnh vực hợp tác tiếp cận được vốn tín dụng.
Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp các Bộ, cơ quan liên quan sớm hoàn thiện các chương trình phát triển nông nghiệp như: Chương trình 1 triệu ha lúa; phát triển sản xuất chế biến công nghiệp tại Tây Nguyên; ứng dụng công nghệ cao và tham gia sản xuất theo chuỗi giá trị tại các địa phương…
Phối hợp với các bộ ngành, Ủy ban Dân tộc triển khai tốt Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có những chương trình tín dụng ưu đãi. Phối hợp UBND TPHCM, các hiệp hội để tổ chức các chương trình của TP, doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức các Hội nghị kết nối Ngân hàng – doanh nghiệp. Đối với một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như BĐS, xăng dầu, dự án, công trình giao thông trọng điểm, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn; phối hợp với các cơ quan địa phương, các Hiệp hội, Tập đoàn có các dự án lớn đối thoại trực tiếp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chỉ đạo tổ chức tín dụng chủ động tiếp cận thông tin, xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở thẩm định hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng cân đối nguồn vốn theo quy định.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, giám sát; trong đó tập trung giám sát chất lượng tín dụng, cấp tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; cấp tín dụng đối với khách hàng và người có liên quan, nhóm khách hàng lớn, cấp tín dụng cho ban lãnh đạo, ban điều hành và người có liên quan của các tổ chức tín dụng, cổ đông; đầu tư trái phiếu doanh nghiệp…
NHNN cũng đề xuất, kiến nghị với các bộ ngành, địa phương liên quan triển khai các giải pháp cần thiết để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp trong thời gian tới. Đề nghị, các doanh nghiệp tích cực thực hiện các biện pháp tái cấu trúc hoạt động, nâng cao năng lực quản trị điều hành, xây dựng các phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, minh bạch tình hình tài chínhm, phối hợp với ngân hàng thành mối quan hệ cộng sinh… để các tổ chức tín dụng có cơ sở thẩm định, quyết định cho vay.
Nếu không có sự hỗ trợ, chúng ta có thể mất ngành sợi
Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam tham luận từ góc độ, góc nhìn của ngành kinh tế xuất khẩu cạnh tranh với nhiều quốc gia khác nhau và có thị trường phát triển. Tiếp cận chính sách tiền tệ theo phương pháp so sánh và đối chiếu với các quốc gia cạnh tranh khác, để xem xét ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành, qua đó có được những kiến nghị liên quan đến mục tiêu đẩy mạnh các ngành xuất khẩu.
Ông Trường cho biết, do dữ liệu được tập đoàn thu thập từ số liệu hoạt động của các doanh nghiệp tập đoàn dệt may là chính, với quy mô chỉ là 5% lao động toàn ngành dệt may và kim ngạch xuất khẩu chỉ trên 8% của toàn ngành; các dữ liệu tài chính chủ yếu dựa trên Báo cáo hợp nhất của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, do đó với hạn chế này thì tham luận của tập đoàn có thể có cái nhìn chưa tổng thể về toàn bộ vĩ mô của nền kinh tế.
Thứ nhất, so sánh tương quan tỷ giá hối đoái giữa nội tệ các nước xuất khẩu dệt may trong top 5 các nước xuất khẩu dệt may của Thế giới. Trong 2 năm 2022, 2023, sau đại dịch COVID-19 và trở lại phục hồi, các quốc gia xuất khẩu dệt may lớn như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Banglades, Thổ Nhĩ Kỳ thì đều có xu thế kích thích xuất khẩu.
Bốn quốc gia kia sử dụng công cụ khá mạnh là giảm giá đồng nội tệ để xuất khẩu. Trong 2 năm 2022, 2023, nước giảm giá đồng tiền tệ nhiều nhất là Thổ Nhĩ Kỳ (giảm 50%); thứ hai là Banglades giảm 21% trong 2 năm, Trung Quốc giảm 11% từ 6,2 nhân dân tệ xuống 7,2 nhân dân tệ, và Việt Nam khoảng hơn 3%.
Đứng riêng về tương quan tỷ giá hối đoái, 2 năm 2022, 2023, hàng dệt may của Việt Nam nói chung đã đắt so với các quốc gia trong top 5 cỡ khoảng 15%. Nó cũng là một trong những nguyên nhân 2 năm 2022, 2023, ngành xuất khẩu dệt may giảm đến 10%, và là nước giảm nhiều nhất trong 5 nước xuất khẩu dệt may.
Thứ hai là về chính sách lãi suất và tín dụng. Nhìn chung hiện nay lãi suất của các quốc gia ở mức 3,5%. Tại Việt Nam với Tập đoàn Dệt may Việt Nam hiện nay, thì mức vay trung bình khoảng 7% với doanh nghiệp tốt và khoảng 9% đối với doanh nghiệp xấu.
Riêng Banglades hiện nay lãi suất khoảng 8%, nhưng họ lại lạm phát trên 10%, nên xét về lãi suất thực dương thì Việt Nam đang là lãi suất thực dương nhất trong các nước xuất khẩu dệt may.
Riêng trong Việt Nam thì lãi suất phải trả cho các ngân hàng năm 2023 của Vinatex trên Báo cáo hợp nhất tăng 10% so với năm 2022, trong khi tổng dư nợ giảm 11%.
Dư nợ giảm 11% nhưng lãi phải trả tăng 10%, tức là so với năm 2022 thì giá vốn đắt hơn, so với năm 2021 có hỗ trợ thì lãi phải trả tăng 30%. Và đứng trên các hợp đồng tín dụng mà tập đoàn đang có của tháng 1, 2/2024 đến giờ phút này cũng chưa cho thấy được tổng lãi phải trả năm 2024 sẽ thấp đi so với năm 2023.
Điểm đặc biệt là trong tất cả các doanh nghiệp dệt may thì doanh nghiệp không khó trong tiếp cận tín dụng khi có đơn hàng vì bản chất doanh nghiệp dệt may có đơn hàng thì có lời, nhưng trong suốt 18 tháng qua ngành khó khăn là ngành sản xuất nguyên liệu.
Trong đó ngành sợi toàn thế giới là lỗ, không chỉ riêng ở Việt Nam. Năm 2022 tiếp cận vốn dễ, năm 2023 thì khó hơn và đặc biệt vừa rồi, cuối năm 2023, đầu năm 2024, khi xem xét hạn mức tín dụng 2024 đối với các doanh nghiệp ngành sợi rất khó khăn.
Hiện nay tất cả các ngân hàng đều cắt giảm hạn mức cho vay với công ty sợi, hoặc yêu cầu có tài sản đảm bảo 100% với khoản vay ngắn hạn năm 2024. Năm 2023 tính chung giá trị tài sản đảm bảo này các khoản vay chỉ khoảng 20%, còn năm nay yêu cầu phải 100% hoặc là áp dụng chính sách trả được 10 thì chỉ được vay lại 8 hoặc 9.
Đối với nhóm sợi hiện nay nhiều đơn vị đối với ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước thì vay khoảng 7%, ngân hàng thương mại cổ phần ngoài nhà nước thì khoảng 9%. Đây là về chính sách lãi suất và tín dụng.
Về chính sách hỗ trợ khác thì hiện nay các nước như Trung Quốc đang duy trì hỗ trợ rất mạnh giá điện. Đối với ngành sợi, Trung Quốc hiện nay đang áp dụng 4 cent/kw, chỉ bằng 50% của Việt Nam và áp dụng hỗ trợ 50% giá vận tải nội địa, kể từ 1/3/2023 khi mở cửa đến giờ.
Với Banglades vẫn đang áp dụng chính sách không bắt buộc bảo hiểm y tế và lương tối thiểu rất thấp, 15$/tháng. Chính từ cái nền này, nhìn từ góc độ của ngành dệt may xuất khẩu (ý kiến này có thể phù hợp với các ngành xuất khẩu nói chung) thì hiện nay việc kinh doanh, câu chuyện toàn cầu thua lỗ ở ngành sợi là có, nó cũng tương tự như ngành hàng không mấy năm của dịch COVID-19.
“Do đó, nếu không có sự hỗ trợ của ngân hàng, chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ, ngành thì chúng ta có thể mất đi ngành sợi”, ông Trường nhận định và dẫn chứng: “Ngành sợi của chúng ta hiện nay có 10 triệu cọc sợi. Giá trị tài sản như đầu tư mới khoảng 6 tỷ đô, giá trị còn lại khoảng 3 tỷ đô và hiện nay mỗi năm đang trả ngân hàng khoảng 300 triệu đô.
Nếu chúng ta giảm hạn mức thì nghe có thể an toàn về phương diện ngắn hạn, nhưng thực ra mất an toàn về vốn dài hạn vì không sản xuất thì không có tiền trả vay dài hạn trước đây. Hiện nay mức trả hàng năm 300 triệu. Ngắn hạn ảnh hưởng đến dài hạn thì chưa chắc là cái nợ”.
Bên cạnh đó, ngành sợi cũng đang duy trì 150.000 lao động, tiền lương trả cho công nhân khoảng 1 tỷ đô, đặc biệt ngành sợi dùng điện nhiều, 1 năm đang trả khoảng 500 triệu đô tiền điện.
Có nhiều huyện như huyện Định Quán, Đồng Nai, 60% doanh thu ngành điện Định Quán đến từ nhà máy sợi. Nếu chúng ta tiếp tục huy động công suất với tỷ lệ thấp thì sẽ rất khó khăn.
Ông Trường cho rằng, đây là câu chuyện của chu kỳ kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp sợi đều bị như vậy nên cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp sợi trong năm 2024, không giảm hạn mức tín dụng và cũng không yêu cầu tài sản bảo đảm cố định, để duy trì được sản xuất quay trở lại tỷ lệ huy động của họ.
Theo ông Trường, hiện nay lãi suất giảm nhưng tiếp cận giải ngân rất khó. Mặt khác, thực tế thị trường năm 2023 khó khăn hơn nhiều so với năm 2021, 2022 do Trung Quốc mở cửa và họ là quốc gia canh tranh lớn nhất của thế giới. Đến tháng 12/2023, báo cáo của Trung Quốc cũng mới chỉ huy động được 60% công suất ngành dệt may nên họ tiếp tục chính sách hỗ trợ để nâng cao tỷ lệ huy động này.
Theo đó, ông Trường cho rằng: “Câu chuyện về có chính sách hỗ trợ như thời kỳ COVID-19 đối với giai đoạn phục hồi này cũng hết sức quan trọng cho các ngành xuất khẩu”.
“Và chính sách cuối cùng liên quan đến tỷ giá, với mức 2 năm vừa rồi chỉ giảm 5% thì các ngành xuất khẩu đang gặp rất nhiều khó khăn so với các quốc gia khác. Chúng tôi cũng không dám nói nên giảm đi bao nhiêu, nhưng có lẽ 5% thì ít và khó cho các ngành xuất khẩu phục hồi”, ông Trường nói.
Ba doanh nghiệp đứng trên bờ vực đã sản xuất ổn định
Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam Nguyễn Phú Cường cho biết, năm 2023, dù gặp nhiều thách thức nhưng Tập đoàn đã vượt qua những khó khăn và đạt được một số kết quả tích cực như: Doanh thu cộng hợp đạt hơn 57.000 tỷ, lợi nhuận xắp xỉ 3.500 tỷ, nộp ngân sách 1.700 tỷ.
Tập đoàn đã bảo đảm công ăn việc làm cho gần 20.000 lao động, với thu nhập bình quân là 13,6 triệu đồng/người/tháng.
Trong năm 2023, Tập đoàn cũng đã sản xuất được hơn 3,1 triệu tấn phân bón các loại, 3,4 triệu lốp ô tô, 330.000 tấn chất tẩy rửa và một số sản phẩm hoá chất khác. Một số sản phẩm có sự tăng trưởng đáng kể, trong đó ure tăng 17%, DAP tăng 35%, supe lân tăng 15%, chất tẩy rửa tăng 18%…
Các sản phẩm của Tập đoàn đã góp phần vào ổn định cung cầu thị trường, đặc biệt là sản phẩm phân bón góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Hiện Tập đoàn đang có số dư nợ tại các ngân hàng khoảng 15.000 tỷ đồng, hầu hết các đơn vị trong Tập đoàn có tình hình tài chính lành mạnh, xếp hạng tín dụng loại A, trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Riêng đối với 3 đơn vị yếu kém thuộc 1 dự án yếu kém của ngành công thương gồm: Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, DAP Lào Cai, trong quá trình cơ cấu lại các đơn vị này, khối ngân hàng thương mại đã có sự giúp đỡ rất nhiều trong việc bảo đảm vốn và dòng tiền.
Đây là 3 đơn vị âm vốn chủ sở hữu, thua lỗ nhiều năm, dẫn đến tình trạng rất khó để thoả mãn các yêu cầu về tín dụng để được cấp vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại cũng đã tham gia vào việc hỗ trợ rất nhiều để cho 3 đơn vị này hoạt động ổn định, duy trì được dòng tiền.
Đặc biệt là nhờ có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các chỉ đạo của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ thì Ngân hàng VDB cũng đã tái cơ cấu lại các khoản vay của 3 đơn vị này, từ việc hạ lãi xuất vay từ 11% về 8,55% tại VDB, đồng thời kéo dài thời gian trả nợ thêm và xóa lãi phạt trên lãi chậm trả, nhờ đó 3 đơn vị này 3 năm liền đã hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi.
Năm 2022, tổng lợi nhuận của 3 đơn vị: Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, DAP Lào Cai đạt được 2.700 tỷ, năm 2023 đạt 1.300 tỷ và riêng 2 tháng đầu năm 2024, các đơn vị cũng hoạt động ổn định và có lãi, công suất huy động sản xuất là hơn 90% công suất thiết kế.
Có thể nói, việc cơ cấu lại các khoản vay của 3 đơn vị hạ lãi suất các khoản vay về 8,55% cùng sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng VBD và các ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện cho 3 đơn vị có thể nói là đứng trên bờ vực trở thành đơn vị sản xuất ổn định.
Trong 3 năm liền, riêng 2 đơn vị sản xuất ure mỗi năm sản xuất ra xấp xỉ 1 triệu tấn ure cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đạm Hà Bắc bây giờ cũng quay trở lại dương vốn chủ sở hữu được 600 tỷ đồng.
Tính đến ngày 29/2/2024, tổng cộng 3 đơn vị: Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, DAP Lào Cai đã trả nợ cả gốc và lãi cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam được 12.138 tỷ trên tổng nợ vay ban đầu là 10.600 tỷ.
Do cơ cấu và sắp xếp lại mà đơn vị có dòng tiền và sản xuất lại ổn định, duy trì việc làm cho người lao động, có dòng tiền trả nợ cho chính các ngân hàng.
Tính đến ngày hôm qua 13/3, cả 3 đơn vị Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, DAP Lào Cai công suất huy động đều trên 90% công suất máy móc thiết bị.
Có được thành quả như trên, Tập đoàn trân trọng cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước của doanh nghiệp, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cũng như sự đồng hành, hỗ trợ của các doanh nghiệp, sự hỗ trợ có hiệu quả của các tổ chức tín dụng.
Ngành công nghiệp hóa chất được Đảng, Chính phủ xác định là 1 trong 6 ngành công nghiệp nền tảng, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện Quyết định số 1265/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch sắp xếp lại Công ty mẹ – Tập đoàn Hóa chất Việt Nam giai đoạn 2022 – 2025 và Đề án cơ cấu lại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đến năm 2025”, trong thời gian tới, Tập đoàn sẽ triển khai đầu tư, mở rộng các hạng mục cũng như thực hiện việc di dời ra khỏi khu công nghiệp Biên Hòa.
Tranh thủ cơ hội phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn, Tập đoàn sẽ tập trung vào sản xuất một số nguyên liệu như Acid phosphoric để phục vụ cho ngành bán dẫn, cũng như hydro xanh hoặc các hoá chất cơ bản phục vụ cho các ngành công nghiệp khác.
Để thực hiện chủ trương, khởi động muối mỏ kali tại Lào, như vậy thời gian tới nhu cầu vốn của các thành viên trong Tập đoàn sẽ rất lớn, Tập đoàn mong muốn tiếp tục nhận được dự quan tâm, đồng hành của các tổ chức tín dụng để có đủ nguồn vốn triển khai các dự án.
Trước những khó khăn, thách thức của nền kinh tế, Tập đoàn đã xây dựng các giải pháp để thực hiện Quyết định số 1265/QĐ-TTg của Thủ tướng và mong nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và các tổ chức tín dụng để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian tới.
Doanh nghiệp bất động sản mong tiếp cận vốn tín dụng có chi phí thấp hơn
Phát biểu tại hội nghị, ông Đặng Minh Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sun Group cho rằng, trong thời gian qua, chính sách hỗ trợ của Chính phủ rất là sát sao, cụ thể.
“Với chúng tôi là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vui chơi, giải trí, du lịch nghỉ dưỡng và bất động sản nghỉ dưỡng thì những chính sách này đã mang lại những hiệu quả nhất định”, ông Trường chia sẻ và dẫn chứng: Riêng Khu du lịch núi Bà Đen ở Tây Ninh năm vừa rồi Sun Group đạt 5 triệu khách. Năm nay dự kiến 7 triệu khách và đến thời điểm này doanh nghiệp đã đạt được 2 triệu khách đi cáp treo nhờ chính sách quy định mới về visa và các chính sách thông thoáng khác.
Riêng với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024, với danh nghĩa là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản nghỉ dưỡng Sun Group đã cảm nhận có những tác động cụ thể và tích cực như sau:
Thứ nhất là bên cạnh việc tháo gỡ về chính sách thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ các chính sách tiền tệ hỗ trợ kinh tế, nhất là việc duy trì lãi suất thấp và giảm lãi suất cho vay và thực tế chúng tôi đã được vay với lãi suất giảm rất là nhiều so với năm ngoái.
Thứ hai là Ngân hàng Nhà nước đã chủ động giao các hạn mức tín dụng ngay từ đầu năm giúp cho các ngân hàng thương mại và chúng tôi hợp tác có những kế hoạch ngay từ đầu năm để phục vụ khách hàng.
Thứ ba là Thông tư 22/2023 có hiệu lực từ ngày 1/7/2023 điều chỉnh giảm hệ số rủi ro một số khoản vay giúp cho các ngân hàng thương mại có thêm dư địa cho việc hỗ trợ chính sách về nhà ở xã hội và các dự án bất động sản công nghiệp cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn.
Liên quan đến tỷ giá thì trong những ngày vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành đấu thầu tín phiếu kỳ hạn 28 ngày, điều tiết ngắn hạn lượng tiền dư trong thị trường và hạ nhiệt tỷ giá giúp cho hoạt động kinh doanh của Sun Group cũng có những tác động rất là tích cực.
Bên cạnh đó thì các Tổ công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã đi các địa phương để tháo gỡ kịp thời rất nhiều các dự án cụ thể về bất động sản.
Sun Group tin rằng những chỉ đạo sát sao, nhất quán của Chính phủ sẽ tiếp tục giúp nền kinh tế phục hồi bền vững và ổn định.
Tuy nhiên để đẩy nhanh tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, Sun Group xin có một số đề xuất. Trước hết, đề nghị Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước tiếp tục có những chính sách giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, quan trọng nhất là ổn định lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Thứ hai là đẩy mạnh đầu tư công, nhất là các dự án hạ tầng, tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp lớn và uy tín tham gia các dự án trọng điểm quốc gia.
Thứ ba là với các chính sách hiện hành cũng như trong tương lai hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đề nghị Chính phủ có sự hướng dẫn, giải thích đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, ngân hàng để các chính sách này đi vào cuộc sống một cách nhanh nhất.
Và cuối cùng Sun Group bày tỏ mong muốn doanh nghiệp bất động sản có khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng có chi phí thấp hơn. Cụ thể là hiện nay sự chênh lệch giữa các khoản vay của ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại nhà nước chênh khá là lớn (từ 4-5%), doanh nghiệp mong muốn có sự thu hẹp khoảng cách này và nếu được thì các chi phí vay vốn giảm hơn nữa để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi.
Mong các ngân hàng có những chính sách mới, có những gói tín dụng mới
Ông Quảng Văn Viết Cương, Phó Giám đốc Tổng Công ty đầu tư và phát triển công nghiệp (Becamex) cho biết: Là một doanh nghiệp nhà nước dưới sự quản lý của tỉnh Bình Dương, Becamex hoạt động trong lĩnh vực phát triển hạ tầng công nghiệp, đô thị, dịch vụ, thương mại, các hệ sinh thái kèm theo, trong lĩnh vực công nghiệp và đô thị. Từ đó, chúng tôi phát triển và có nhiều kết quả tốt.
Năm 2023 là năm khó khăn, nhưng với Tập đoàn Becamex có những phát triển ngoạn mục và sẵn sàng tâm thế cho năm 2024.
Hội nghị hôm nay đối với vấn đề tín dụng, đối với Tập đoàn và hệ sinh thái của Becamex luôn luôn nhận được sự hợp tác của các tổ chức ngân hàng lớn, vừa và nhỏ ở trong nước và ngoài nước.
Trong thời gian dài, nhiều tổ chức tín dụng đã đoàn kết, đồng lòng với Becamex và hệ sinh thái của Becamex. Đây là sự thành công, nỗ lực vượt khó của Becamex trong những năm vừa qua.
Becamex cho rằng, việc tiếp cận tín dụng của Becamex là không khó. Về chính sách, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã chỉ ra đầy đủ những thuận lợi và khó khăn trong giai đoạn hiện nay.
Một khó khăn mà nhiều doanh nghiệp bất động sản vướng mắc và Becamex cũng gặp khó, đó là tất cả kế hoạch, phát hành trái phiếu – là những lĩnh vực chính của Becamex, vì khi doanh nghiệp phát triển hạ tầng thì đòi hỏi nguồn vốn rất lớn.
Tuy nhiên, những năm gần đây, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thường có kế hoạch phát hành, kế hoạch sử dụng, kế hoạch trả nợ thường kéo dài nên ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ, dẫn đến ảnh hướng về vay tín dụng.
Khi Becamex triển khai các dự án trên cả nước, rõ ràng dự án khi triển khai chậm hơn so với trước đây. Trước đây, chúng ta có chủ trương của Thủ tướng, chúng ta có luôn một hoạch định và thời gian, chúng ta tính được hiệu quả của dự án, thì thời gian sau này, các bước thủ tục về pháp lý thường kéo dài, cho nên dòng tiền và kế hoạch trả nợ gặp khó khăn.
Qua nhiều hội nghị năm 2023, có thể nói rằng, Thủ tướng và các bộ, ngành đã gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp của bất động sản, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ.
Những chỉ đạo của Chính phủ đang lan toả tới tất cả các địa phương. Becamex mong rằng, sự lan toả này sẽ đến từng cán bộ nhân viên, công chức.
Rõ ràng, sự quyết tâm của Chính phủ đã rõ, nhưng chặng cuối là chặng quyết định nhất, đó là các thủ tục hoàn thành để được ngân hàng đến với doanh nghiệp.
Becamex cho rằng, tín dụng không khó, khi doanh nghiệp tiếp cận ngân hàng thì pháp lý chưa đầy đủ, vì vậy chúng ta cần tập trung khúc này.
Đối với Becamex, chúng tôi cho rằng, vướng mắc là do cơ chế, về giải quyết công việc. Còn các công đoạn khác rất tốt.
Trong xu thế mới, nếu hoạt động đơn thuần là kinh doanh bất động sản thì sẽ rất khó khăn, vì vậy, lĩnh vực của Becamex hiện nay tập trung trong năm 2024 là phát triển nhà ở xã hội phục vụ công nhân và người dân tại Bình Dương. Becamex dự định vừa xây dựng và vừa mở rộng từ 10.000-20.000 căn hộ trong năm nay.
Tất cả các dự án tại các địa phương khác, Becamex cũng đưa ra mô hình này để phát triển nhà ở xã hội.
Becamex đề nghị: Trong giai đoạn hiện nay, để khu công nghiệp thu hút đầu tư trong điều kiện mới về kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, khí thải các bon…, Becamex đang phát triển một hệ sinh thái về năng lượng tái tạo, tiếp cận các hệ sinh thái để bổ trợ cho việc thu hút đầu tư cho địa phương, cho cả nước.
Becamex mong các ngân hàng có những chính sách mới, có những gói tín dụng mới triển khai để các doanh nghiệp nắm bắt, để có cơ sở xây dựng và tạo điều kiện kết nối nguồn vốn tín dụng tốt nhất, đảm bảo lĩnh vực mới này phát triển vì hiện nay phát triển năng lượng tái tạo chưa có ưu đãi đặc biệt, khác biệt so với những quy định hiện tại.
Becamex mong Chính phủ, các bộ, ngành quan tâm để khi đầu tư một hệ sinh thái toàn diện thì du lịch rất tốt trong việc thu hút đầu tư.
Becamex cũng mong Chính phủ quan tâm việc tăng vốn điều lệ của các doanh nghiệp cũng như Becamex trong thời gian sắp tới, để Becamex có nguồn lực mới đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Chính sách tiền tệ hợp lý và tối ưu sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư
Ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: Việc điều hành chính sách tiền tệ giữ rất vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của chúng ta là một trong những nước cao nhất thế giới.
Trong thời gian vừa qua, chúng tôi đánh giá cao sự điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng đã bảo đảm được ổn định lãi suất, lạm phát và tỷ giá, giúp cho các doanh nghiệp lớn như Petro Việt Nam có sự ổn định và đạt được những kết quả như trong thời gian qua.
Đối với Petro Việt Nam, cơ cấu về tài sản và cơ cấu nợ, đặc biệt là tín dụng trong toàn Tập đoàn hợp nhất đến nay khoảng 240.000 tỷ. Nếu tăng 1% lãi suất thì chi phí vốn của Tập đoàn sẽ tăng lên khoảng 2.400 tỷ/năm, chính vì thế nên việc cơ cấu lại vốn, tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các dự án đầu tư của Petro Việt Nam là rất quan trọng, giúp cho các dự án đầu tư nói riêng và toàn Tập đoàn giảm được chi phí sử dụng vốn bình quân trong từng dự án, giống như ở dự án đầu tư Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn mà Thủ tướng đã trực tiếp chỉ đạo trong việc tái cấu trúc lại vốn vay của các tổ chức tín dụng, từ các ngân hàng trên thế giới.
Hiện nay, PVN đang trong quá trình đàm phán với các ngân hàng để tái cấu trúc lại các khoản vay này bằng các khoản vay mới có chi phí vốn sử dụng bình quân thấp hơn, giúp cho chi phí sản xuất kinh doanh của công ty liên doanh này tối ưu hơn, từng bước vượt qua khó khăn.
Đây cũng là một trong những bài học mà Tập đoàn Hóa chất, Vinatex đã nêu trong bối cảnh khó khăn. Trong điều kiện thị trường khó khăn, khi các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính lớn, chúng ta cần phải áp dụng các mô hình như là mô hình lợi nhuận trước lãi vay và khấu hao để cân đối, tính toán việc sản xuất kinh doanh và tối ưu các chi phí, trong đó có chi phí tài chính, thông qua việc tái cấu trúc các nguồn vốn sử dụng cho doanh nghiệp.
Do đó, trong thời gian tới, theo kế hoạch 2021-2025, Petro Việt Nam có kế hoạch huy động khoảng 250,3 nghìn tỷ từ tín dụng để cho đầu tư phát triển và với ảnh hưởng độ nhạy của lãi suất lên chi phí sử dụng vốn của PVN như vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ, NHNN tiếp tục giữ chính sách về lãi suất tối ưu và ổn định, để tránh ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của Tập đoàn nói riêng và các doanh nghiệp nói chung.
Về tỷ giá, như chúng tôi báo cáo, hiện nay dư nợ vay ngoại tệ của PVN là 38.000 tỷ, tương đương khoảng 1.500 tỷ USD, do đó biến động và rủi ro tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn, đặc biệt trong việc quản trị rủi ro theo biến động của tỷ giá.
Rất mừng là thời gian qua, NHNN đã điều hành tỷ giá ổn định, giúp doanh nghiệp giảm thiểu ảnh hưởng của biến động tỷ giá. Chúng tôi rất mong trong thời gian tới, NHNN sẽ có các giải pháp để giữ cho tỷ giá ổn định.
Thứ ba, về chính sách cho vay, các dự án đầu tư của Petro Việt Nam có quy mô rất lớn, khối lượng vay rất lớn như dự án nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn lên đến gần 5 tỷ USD… do đó, nếu chúng ta có chính sách cho vay và hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng trong nước, đặc biệt là 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn như hiện nay thì năng lực của chúng ta cải thiện rất nhiều so với trước đây.
Vì thế, nếu Chính phủ và NHNN có chính sách hỗ trợ các ngân hàng này, đặc biệt xem xét áp dụng cho từng trường hợp, đặc biệt là với các tập đoàn lớn, các dự án lớn, nâng trần hạn mức cho vay đối với từng đơn vị, hoặc cho toàn tổ hợp thì có thể hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng này và các doanh nghiệp lớn, các dự án siêu lớn có thể tiếp cận và sử dụng nguồn tín dụng trong nước.
Chính sách đó sẽ giúp cho các chủ đầu tư như Petro Việt Nam và các ngân hàng trong nước kiểm soát được chi phí sử dụng vốn bình quân của dự án đầu tư khi có các biến động. Bài học cho thấy đàm phán tái cơ cấu tài chính của các dự án vay vốn nước ngoài rất khó khăn. Nếu các tổ chức tín dụng trong nước có quan hệ, không chỉ thông qua các dự án đầu tư mà còn qua các hoạt động sản xuất kinh doanh thì chúng ta có thể trao đổi đàm phán, giúp đỡ nhau điều chỉnh lại chỉ số trong thời điểm khó khăn; điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn và có định hướng lâu dài.
PVN cho rằng với chính sách tiền tệ hợp lý và tối ưu sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy các chỉ tiêu, bao gồm cả sản xuất kinh doanh và đầu tư, nhất là với các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính lớn từ thị trường tín dụng như Petro Việt Nam.
Thời gian tới, PVN mong muốn NHNN sẽ tiếp tục có chính sách tiền tệ, tín dụng ổn định như thời gian qua để hỗ trợ, phát triển đầu tư với mục tiêu tăng trưởng từ 3-6,5 %/năm như Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo.