-
Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
-
Phân chia theo khẩu vị rủi ro từ thấp tới cao, kênh tiền gửi tiết kiệm và vàng vẫn được coi là an toàn, nhất là kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn đối với nhiều NĐT trong bối cảnh lãi suất huy động được dự báo sẽ duy trì ở mức cao trong năm 2023.
TS. Cấn Văn Lực cùng nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa có Báo cáo đánh giá nhanh về “Động thái giảm tiếp lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước và kiến nghị”.
Dưới đây là toàn bộ báo cáo của nhóm chuyên gia:
Bốn cơ sở cho quyết định tiếp tục hạ lãi suất điều hành của NHNN:
Việc NHNN quyết định giảm tiếp một số lãi suất điều hành (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng nội tệ đối với một số lĩnh vực ưu tiên, tất cả đều giảm 0,5 điểm %), hiệu lực từ ngày 19/6/2023, theo chúng tôi, đây tiếp tục là một động thái mạnh mẽ, phù hợp với bốn cơ sở sau đây:
Một là, áp lực tăng lãi suất và tỷ giá đã và đang giảm đáng kể : từ bên ngoài, Fed đã tạm dừng tăng lãi suất, có thể còn tăng nhưng tổng lượng tăng dự báo chỉ ở mức nhẹ (0,25-0,5 điểm %) nếu có từ nay đến cuối năm 2023, thậm chí có thể giảm nhẹ lãi suất từ đầu năm 2024.Theo đó, áp lực lãi suất, tỷ giá đối với Việt Nam đã và đang giảm đáng kể. Thực tế, mặt bằng lãi suất của Việt Nam đã giảm 1-1,5% và tỷ giá USD/VND thậm chí giảm nhẹ 0,57% so với đầu năm.
Thứ hai, lạm phát dù còn cao, nhưng đang giảm dần từ tháng 2/2023: CPI bình quân 5 tháng tăng 3,55%, giảm so với mức tăng 3,84% của 4T/2023 và 4,89% của tháng 1/2023; lạm phát cơ bản bình quân 5 tháng tăng 4,83%, giảm so với mức tăng 4,9% của 4T/2023 và 5,21% của tháng 1/2023, so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh sức cầu còn yếu, vòng quay tiền chậm, cung tiền còn ở mức thấp (cả năm tăng khoảng 9-10%), nên CPI bình quân cả năm trong tầm kiểm soát (dự báo tăng khoảng 4%).
Thứ ba, thị trường tiền tệ trong nước cơ bản ổn định, thanh khoản hệ thống ngân hàng dồi dào hơn , cầu tín dụng yếu. Từ đầu năm 2023 đến nay, thị trường tiền tệ trong nước đã trở nên ổn định hơn nhiều so với quý 4/2022. Thanh khoản hệ thống các TCTD đã dồi dào hơn (lãi suất thị trường liên ngân hàng giảm mạnh). Một phần là do trong bối cảnh xuất khẩu thu hẹp, sản xuất công nghiệp chậm lại, nhu cầu tín dụng thấp (hết 5 tháng đầu năm, tín dụng mới tăng 3,17% so với mức tăng 8,09% cùng kỳ năm trước), trong khi huy động vốn ước tăng 2%, gần gấp đôi cùng kỷ năm ngoái).
Bốn là, tình hình kinh tế – xã hội có nhiều khó khăn , số liệu tháng 5 có đỡ hơn một chút nhưng các động lực tăng trưởng chính như xuất khẩu, đầu tư tư nhân, đầu tư FDI và sản xuất công nghiệp vẫn giảm; đầu ra – đơn hàng cho doanh nghiệp và nhiều lĩnh vực như bất động sản, xây dựng, điện tử, điện thoại, dệt may, da giày, gỗ, thủy hải sản…còn nhiều khó khăn. Việc giảm lãi suất là một trong những giải pháp hỗ trợ vượt khó cho doanh nghiệp, người dân, thúc đẩy tăng trưởng như đánh giá chi tiết dưới đây.
Bốn tác động của việc giảm lãi suất điều hành của NHNN đối với nền kinh tế và doanh nghiệp:
Một là, việc giảm lãi suất sẽ hỗ trợ các TCTD trong việc tiếp cận vốn từ NHNN qua các công cụ như cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, liên ngân hàng; qua đó, giúp các TCTD có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất huy động và cho vay. Đồng thời, tăng trưởng tín dụng được kỳ vọng sẽ khởi sắc hơn khi lãi suất giảm trong thời gian tới, qua đó góp phần tăng thu nhập từ tín dụng và các dịch vụ liên quan cho các TCTD.
Hai là , lãi suất giảm (đối với cả nợ cũ và vay mới) sẽ hỗ trợ doanh nghiệp, bên vay vốn, giảm một phần chi phí tài chính. Doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn mới (vay nợ, phát hành trái phiếu) với lãi suất thấp hơn, vừa góp phần tăng khả năng trả nợ, giảm rủi ro nợ xấu, giảm chi phí đầu vào, vừa tạo điều kiện giảm giá đầu ra tương ứng, qua đó kích thích tiêu dùng.
Ba là , động thái chính sách này tiếp tục cho thấy thay đổi chính sách tiền tệ, từ thận trọng sang linh hoạt, nới lỏng, theo đó, doanh nghiệp và người dân có kỳ vọng lãi suất tiếp tục giảm, khiến họ có thể quyết định đầu tư, tiêu dùng nhiều hơn, góp phần hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội năm nay và năm tới.
Bốn là, lãi suất giảm sẽ có tác động tích cực một phần lên thị trường chứng khoán (TTCK) và bất động sản khi mà: (i) nhà đầu tư có thể sẽ chuyển dịch một phần từ tiền tiết kiệm sang chứng khoán, mua bất động sản với mong muốn tìm kiếm tỷ suất sinh lời cao hơn cùng với kỳ vọng về triển vọng phục hồi của TTCK hoặc chi phí mua bất động sản thấp hơn…v.v. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc nhiều vào khẩu vị rủi ro của mỗi nhà đầu tư vì đầu tư chứng khoán, bất động sản rủi ro hơn so với gửi tiền tiết kiệm.
Năm kiến nghị:
Để chính sách trên tiếp tục phát huy tác dụng, giảm độ trễ, tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất, chúng tôi có năm kiến nghị như sau:
Một là, không chủ quan nhưng cũng không quá quan ngại với lạm phát. Áp lực lạm phát của Việt Nam vẫn còn (do có độ trễ nhập khẩu lạm phát, giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý có thể tăng như giá điện, phí y tế – giáo dục, lương cơ sở tăng từ ngày 1/7, cung tiền năm nay khá lớn từ đầu tư công, tín dụng, kênh dẫn vốn khác được khơi thông tốt hơn…). Tuy nhiên, chúng ta cũng không quá quan ngại lạm phát năm nay do lạm phát và giá cả toàn cầu đang giảm, tỷ giá ổn định, sức cầu còn yếu, vòng quay tiền còn chậm (dự báo CPI bình quân cả năm tăng khoảng 4%). Mặc dù vậy, cần nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách , nhất là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, giá cả và các chính sách vĩ mô khác nhằm chủ động kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Hai là, theo sát tình hình thị trường tài chính quốc tế , nhất là đối với thị trường tài chính – tiền tệ, động thái của Chính phủ, NHTW các nước lớn, để phân tích, dự báo và đưa ra kịch bản ứng phó phù hợp, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống tài chính trong nước, cũng là góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát rủi ro hệ thống ngân hàng, chứng khoán.
Ba là, đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém và thanh khoản còn mỏng nhằm giảm thiểu cạnh tranh tăng lãi suất không lành mạnh, đôi khi phá vỡ mặt bằng lãi suất chung, khiến việc giảm lãi suất trở nên khó khăn hơn.
Bốn là, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt hơn nữa việc cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh , hỗ trợ cả chi phí đầu vào (thông qua các chính sách giãn hoãn, giảm thuế, phí đang tiến hành và mở rộng, nếu cần), và hỗ trợ đầu ra (đa dạng hóa, tìm kiếm thị trường, đối tác, đơn hàng…). Quan trọng hơn là có giải pháp cụ thể tăng hiệu quả thực thi công vụ của bộ máy hành chính; tháo gỡ kịp thời các vướng mắc (nhất là về thủ tục hành chính, pháp lý, vốn…) trong các lĩnh vực như đất đai, bất động sản, xây dựng, đấu thầu, thông quan, tiếp cận điện, phòng cháy chữa cháy, đăng kiểm…; đây chính là các giải pháp đồng bộ giúp DN, người dân giảm khó khăn, thách thức và cũng là kích cầu đầu tư, tiêu dùng và tín dụng trong thời gian tới.
Cuối cùng là, bản thân các TCTD và doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, tiết giảm chi phí, tăng cường quản lý rủi ro (nhất là rủi ro thị trường, rủi ro tài chính, pháp lý…), qua đó có điều kiện giảm lãi suất trên diện rộng và bền vững hơn.