Việc các doanh nghiệp tăng cường sản xuất để chuẩn bị nguồn hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cuối năm, đã tạo đà bứt phá cho sản xuất công nghiệp, với mức tăng 9,3% sau 11 tháng…
Đáng chú ý, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành.
Theo số liệu báo cáo được Cục Thống kê (Bộ Tài chính) công bố
sáng 6/12, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11/2025 ước tăng 2,3% so với
tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến,
chế tạo tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước; ngành khai khoáng tăng 7,0%; ngành
cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%; sản xuất
và phân phối điện tăng 5,8%.
Tính chung 11 tháng năm 2025, IIP ước tăng 9,3% so với cùng
kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,3%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo
tăng 10,6% (cùng kỳ năm 2024 tăng 9,6%), đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào mức
tăng chung; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải
tăng 8,4% (cùng kỳ năm 2024 tăng 10,2%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành sản
xuất và phân phối điện tăng 6,5% (cùng kỳ năm 2024 tăng 9,8%), đóng góp 0,6 điểm
phần trăm; ngành khai khoáng tăng 0,9% (cùng kỳ năm 2024 giảm 6,7%), tăng 0,1
điểm phần trăm.

so với cùng kỳ năm trước của một số ngành công nghiệp trọng điểm (%). Nguồn: Cục Thống kê.
Xét theo ngành trọng điểm cấp II, báo cáo của Cục Thống kê
ghi nhận nhiều ngành đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất xe có
động cơ tăng 22,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,5%; sản
xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,4%; sản xuất kim loại tăng 15,5%; sản
xuất trang phục tăng 13,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc,
thiết bị) tăng 12,6%…
Ở chiều ngược lại, chỉ
số IIP một số ngành tăng trưởng thấp hoặc giảm như khai thác than cứng và than
non tăng 3,7%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 2,7%.
Về tình hình sản xuất công nghiệp của các địa phương trong
11 tháng năm 2025, báo cáo của Cục Thống kê cho thấy sự khởi sắc trên diện rộng,
khi chỉ số IIP tăng tại tất cả 34 địa phương trên cả nước.
Trong đó, địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo 11 tháng năm 2025 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Quảng
Ninh tăng 33,8%; Phú Thọ tăng 28,8%; Ninh Bình tăng 23,4%; Thanh Hóa tăng
17,5%; Bắc Ninh và Hải Phòng cùng tăng 16,9%.
Các địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân
phối điện tăng cao: Huế tăng 32,0%; Nghệ An tăng 25,3%; Đồng Nai tăng 10,2%.
Bên cạnh đó, một số địa phương có chỉ số sản xuất của ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm 2025 tăng thấp so với cùng kỳ năm
trước: Hà Tĩnh tăng 5,1%; Lạng Sơn tăng 4,7%; Cao Bằng tăng 0,5%.
Các địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện
11 tháng năm 2025 tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa tăng
2,2%; Lâm Đồng tăng 1,6%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 29,7%.
Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành khai khoáng 11 tháng
năm 2025 so với cùng kỳ năm trước giảm: Quảng Trị giảm 10,9%; Tuyên Quang giảm
4,8%; Thành Phố Hồ Chí Minh giảm 1,8%; Hà Nội giảm 1,7%.

Về sản phẩm công nghiệp chủ lực, 11 tháng năm 2025 ghi nhận sự bứt phá của nhiều mặt hàng. Dẫn đầu là ô tô với mức tăng 37,4%; tiếp đến là tivi tăng 19,0%; thép cán tăng 18,5%. Các sản phẩm tiêu dùng và nguyên liệu khác cũng tăng trưởng tích cực như thức ăn cho thủy sản tăng 14,8%; quần áo mặc thường tăng 14,2%; xi măng tăng 14,1% giày, dép da tăng 12,8%; đường kính tăng 12,3%; phân hỗn hợp NPK tăng 11,9%; sơn hóa học tăng 10,9%. Ở chiều ngược lại, khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 5,9% và vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 1,8%.
Sự phục hồi của sản xuất đã tác động tích cực đến thị trường
lao động. Tại thời điểm 01/11/2025, số lao động
đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 1,0% so với tháng trước
và tăng 3,7% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, tỷ lệ tương ứng của
doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,5%
so với cùng thời điểm năm trước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
1,3% và tăng 4,5%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,7% và tăng 1,9%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp ngành khai khoáng không đổi so với cùng thời điểm tháng trước và
tăng 1,6% so với cùng thời điểm năm trước; số lao động trong ngành chế biến, chế
tạo tăng 1,1% và tăng 3,9%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và tăng 1,9%; ngành cung cấp nước,
hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,3% và tăng 1,9%.
Cục Thống kê-Huyền Vy




