Các động lực tăng trưởng truyền thống có nhiều điểm đã bắt đầu tới hạn, Việt Nam phải có mô hình tăng trưởng mới. Điều này cũng đặt ra vấn đề cần phải làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, tăng cường năng lực nội tại; đồng thời, có các động lực tăng trưởng mới, mô hình kinh tế mới và những giải pháp đột phá. Đặc biệt, yếu tố để tăng cường nội lực của nền kinh tế phải đến từ các doanh nghiệp trong nước.
Tại phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế mới 2025 (Vietnam New Economy 2025) với chủ đề “Sức bật kinh tế Việt Nam: từ nội lực đến chuỗi giá trị toàn cầu” vừa diễn ra, các chuyên gia, lãnh đạo các doanh nghiệp đã cùng chia sẻ, thảo luận, kiến nghị nhiều giải pháp quan trọng nhằm phát huy năng lực nội tại của đất nước và các doanh nghiệp, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, khai mở các mô hình kinh tế mới, động lực tăng trưởng mới để tạo sức bứt bật cho nền kinh tế, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng, phát triển.


“Trong sứ
mệnh lịch sử hiện nay, với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), sự tham gia
của lực lượng FDI là vô cùng quan trọng. Ngay cả Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ
hai thế giới, cũng khó có thể đạt được thành công như hiện nay nếu không có
dòng vốn hỗ trợ cùng kinh nghiệm lâu đời từ các nhà đầu tư FDI. FDI không chỉ
mang đến nguồn lực tài chính dồi dào, mà còn cả kinh nghiệm cho các SME trong
nước.
Tuy nhiên,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải nỗ lực nhiều hơn nữa để gia tăng tỷ lệ tham
gia vào chuỗi cung ứng và công nghiệp phụ trợ trong hệ sinh thái của các doanh
nghiệp nước ngoài. Có những khâu rất đơn giản trong chuỗi sản xuất của doanh
nghiệp FDI lại để các doanh nghiệp nước ngoài khác thực hiện, trong khi doanh
nghiệp Việt hoàn toàn có đủ khả năng đảm nhận lại không thể “chen chân”.
Ở góc độ
thị trường, với những ưu đãi thuế quan hay thuận lợi thương mại từ Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA), châu Âu là thị trường xuất khẩu tiềm
năng khổng lồ của Việt Nam với giá trị cả nghìn tỷ USD. Tuy nhiên, thực tế Việt
Nam mới chỉ khai thác được khoảng 2% dung lượng thị trường này, trong khi lại
loay hoay tập trung vào thị trường Mỹ hoặc một số khu vực khác nhưng kết quả
thu về rất hạn chế.
Thị trường
EU được coi là “khó tính”, nhưng nếu không mạnh dạn bước ra thì doanh nghiệp Việt
sẽ khó vươn tầm. Để làm được điều này, tôi cho rằng Nhà nước cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường.
Ngoài ra,
về chính sách thuế, với doanh nghiệp có doanh thu dưới 1 tỷ đồng, cần có cơ chế
nộp thuế ưu đãi hơn. Lợi ích từ thể chế sẽ khuyến khích nhiều hơn số lượng
doanh nghiệp tham gia thị trường, qua đó tạo tác động lan tỏa cho nền kinh tế.
Về tiếp cận
vốn, mặc dù lãi suất đã được Ngân hàng Nhà nước giảm nhiều lần, nhưng trên thực
tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn rất khó tiếp cận nguồn vốn vay tại các ngân
hàng thương mại, do còn nhiều rào cản về thế chấp và thủ tục.
Do đó, cần
thay đổi tư duy: coi tín chấp là chính, thế chấp chỉ là phụ, đồng thời cải thiện
cơ chế bảo lãnh tín dụng để các quỹ thực sự có thể mở rộng dịch vụ cho vay.
Song song đó, cần đổi mới mô hình cho vay, tận dụng các ngân hàng số và ứng dụng
tài chính số để cấp vốn trực tiếp, nhanh chóng, chi phí thấp.
Những nền
tảng như MoMo hay Misa đã triển khai hoạt động cho vay. Vậy tại sao chúng ta
không chính thức hóa, tạo cơ chế để họ tham gia sâu hơn, hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa?
Về hỗ trợ
khởi sự và quản trị, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp
chuẩn bị thành lập; đồng thời, nên có chính sách tăng cường đào tạo quản trị, hỗ
trợ tài chính để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vươn lên bền vững”.

“Việt Nam
sở hữu một thị trường nội địa rất lớn và hấp dẫn, đó chính là trụ cột cho tăng
trưởng của nền kinh tế. Với hơn 100 triệu dân, Việt Nam là quốc gia có dân số
đông thứ 15 trên thế giới. Xét về quy mô GDP theo sức mua, thị trường Việt Nam
xếp hạng 25 trên toàn cầu.
Tăng trưởng
kinh tế cao cùng với việc thu nhập người dân được cải thiện nhanh chóng đã tạo
ra một tầng lớp tiêu dùng mạnh mẽ. Theo báo cáo của World Bank, đến năm 2035,
khoảng 50% dân số Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu, tạo ra một phân khúc có sức
mua rất lớn và là một thị trường cực kỳ hấp dẫn.
Những rào
cản về địa lý, điều khiến doanh nghiệp khó tiếp cận người dân ở vùng nông thôn
hay miền núi trước đây, đang dần được xóa bỏ. Sự phát triển của hệ thống phân
phối, đặc biệt là hệ thống giao hàng (shipper), đã giúp hàng hóa có thể đến người
dùng ở những bản làng xa xôi nhất, mở rộng phạm vi tiếp cận của thị trường nội
địa.
Đặc biệt,
xu hướng tiêu dùng hàng Việt đã chuyển biến mạnh mẽ. Ví dụ như với ngành điện ảnh
hiện nay, doanh thu bộ phim “Mưa đỏ” hiện đã đạt gần 800 tỷ đồng. Điều
này cho thấy hàng Việt Nam đã chinh phục được người Việt Nam, tạo ra một tiềm
năng lớn cho các sản phẩm nội địa.
Có thể khẳng
định thị trường trong nước được xem là một trụ cột quan trọng và là đòn bẩy tự
cường cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu có nhiều biến
động.
Quy mô dân
số lớn là trụ cột quan trọng cho tăng trưởng. Trung Quốc đã chuyển dịch mô hình
tăng trưởng, chú trọng nhiều hơn vào nhu cầu nội. Các nền kinh tế lớn khác
trong ASEAN như Indonesia và Philippines cũng là những ví dụ điển hình cho điều
này.
Thị trường
nội địa là một “động lực” và “bệ đỡ” giúp đảm bảo khả năng,
năng lực tự cường và duy trì sức bật của nền kinh tế trong dài hạn. Trong giai
đoạn vừa qua, những bất ổn khi thâm nhập các thị trường quốc tế quan trọng đã
khiến nhiều doanh nghiệp Việt phải có chiến lược đa dạng hóa thị trường, và nhắm
vào thị trường trong nước là một trong những chiến lược quan trọng nhất.
Đặc biệt,
doanh nghiệp Việt có lợi thế là “hiểu thị trường Việt Nam, hiểu bản sắc Việt
Nam, hiểu cá tính, văn hóa Việt Nam” hơn ai hết. Việc chinh phục thị trường
phải dựa trên chất lượng, giá cả, và thương hiệu để hàng hóa nội địa thực sự
thu hút và giữ chân người tiêu dùng trong nước. Đây là chìa khóa để khai mở tiềm
năng vô cùng lớn hơn 100 triệu dân với thu nhập khả dụng ngày một gia tăng”.

“Hiện nay
ngành thép Việt Nam đứng thứ 12 thế giới và đứng đầu Đông Nam Á. Mặc dù là cường
quốc sản xuất thép trên thế giới nhưng thực tế Việt Nam vẫn chỉ sản xuất thép
xây dựng, trong khi thép chế tạo hợp kim sản xuất ít.
Thép là sản
phẩm phục vụ hầu hết ngành công nghiệp từ xây dựng, cơ khí đóng tầu, năng lượng,
đường sắt. Đây đều là những ngành sử dụng thép nhưng doanh nghiệp sử dụng thép
đa phần là doanh nghiệp nhỏ. Hòa Phát tiếp cận nhiều doanh nghiệp trong Hiệp hội
Cơ khí, mỗi năm họ cho biết cần các chủng loại thép khác nhau nhưng chỉ khoảng
10-20 tấn thép, trong khi một mẻ thép Hòa Phát sản xuất là 300 tấn.
Bài toán
“con gà quả trứng” đặt ra là: nếu không có ngành công nghiệp nền đủ lớn
mạnh thì không có doanh nghiệp cơ khí lớn; nếu không có thị trường lớn thì
doanh nghiệp sản xuất không biết bán đi đâu, bài toán này rất khó.
Hòa Phát
vướng bài toán đó và phải xác định là doanh nghiệp đi đầu nên chấp nhận đầu tư
một phần vào ngành và phải đi trước. Ví dụ vừa rồi, Hòa Phát đầu tư nhà máy sản
xuất thép ray. Chưa từng có doanh nghiệp Việt Nam nào sản xuất thép ray đường sắt
thường chứ chưa nói thép ray cho đường sắt tốc độ cao.
Chúng tôi có
niềm tin mạnh mẽ vào chủ trương của Chính phủ là sẽ đặt hàng doanh nghiệp nếu
doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra sản phẩm chất lượng với chi phí hợp lý. Đó là
niềm tin để chúng tôi làm nhà máy đó.
Chính phủ
đã có Nghị định về việc đặt hàng doanh nghiệp, và chúng tôi hy vọng sẽ nhận được
đơn đặt hàng về sản xuất thép ray. Do đó, chúng tôi vẫn đang đầu tư nhà máy,
triển khai quyết liệt để đến năm 2027 có thể vận hành”.

“Trong
giai đoạn trước năm 2015, dệt may thường xuyên là ngành có tốc độ tăng trưởng
hai con số, thậm chí có những năm tăng đến 30% (ví dụ như năm 2007), qua đó đưa
Việt Nam trở thành một trong những cường quốc dệt may trên thế giới. Tuy nhiên,
từ năm 2015 đến nay, ngành dệt may đã bắt đầu tăng trưởng chậm lại.
Tôi cho rằng
tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may giảm đi là một điều mừng cho đất nước.
Quan điểm này dựa trên bài học kinh tế học quốc tế: các ngành xuất khẩu sử dụng
nhiều lao động chỉ là giai đoạn đầu tiên của quá trình phát triển, kể cả Đài
Loan hay Hàn Quốc. Việc ngành dệt may giảm tốc là một tín hiệu vui, vì chứng tỏ
nền kinh tế Việt Nam đã bước lên một ngưỡng mới, có khả năng lựa chọn làm những
việc khác có giá trị tốt hơn.
Tuy nhiên,
ở góc độ một người làm trong ngành, Vinatex phải tìm cách duy trì được năng lực
cạnh tranh và tiếp tục đóng góp cho nền kinh tế.
Chiến lược
mở rộng công suất liên tục như giai đoạn 1995- 2015 đã không còn phù hợp. Nhu cầu
dệt may thế giới có tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) trong 10 năm qua chỉ
khoảng 1,7%. Do đó, việc tăng trưởng ở mức 5-7% đã là khó khăn và đòi hỏi phải
giành thị phần của đối thủ.
Về đóng
góp cho tăng trưởng, GDP tăng trưởng không chỉ là tăng kim ngạch xuất khẩu, mà
là tăng trưởng thặng dư giữa xuất khẩu và nhập khẩu, tăng trưởng tiền lương của
người lao động.
Do đó,
ngành dệt may phải tập trung vào hai con đường chính để đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế quốc gia.
Thứ nhất, tăng giá trị gia tăng (VA) và tăng
nội địa hóa. Tăng kim ngạch xuất khẩu ít nhưng giảm nhập khẩu nguyên liệu nhiều
để làm cho thặng dư lớn lên. Tỷ lệ nội địa hóa ngành dệt may của Việt Nam hiện
đã đạt khoảng 45% (so với mức ban đầu là 10%) và mục tiêu hợp lý là 55 – 60% để
tối ưu hóa mà không làm mất năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, đổi mới công nghệ và tăng mức
lương bằng ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, tự động hóa, robot hóa, và AI để tăng
giá trị sản xuất trên mỗi người lao động. Mục tiêu là tăng mức lương của người
lao động lên mức 7.500 – 8.000 USD/năm, tương đương với việc doanh thu trên đầu
người phải đạt khoảng 20.000 USD trở lên.
Để đạt được
năng suất lao động cao hơn, Việt Nam sẽ phải dừng lại ở mức 2,0– 2,2 triệu lao
động (thay vì 3 triệu lao động), và tập trung đổi mới công nghệ cho đội ngũ lao
động. Đây là cách để “làm mới động lực cũ” của ngành dệt may.
Còn với việc
hình thành thương hiệu dệt may của Việt Nam, theo tôi, một thương hiệu toàn cầu
thường cần ba yếu tố hội tụ. Đó là một thị trường nội địa cực lớn để tạo sức
lan tỏa ban đầu (như Trung Quốc, Ấn Độ); một nền văn hóa bản sắc đặc biệt để tạo
ra nét riêng và sự chủ động cao về kỹ thuật công nghệ.
Việt Nam
có thể chủ động về kỹ thuật công nghệ thông qua đầu tư, nhưng lại thiếu thị trường
nội địa đủ lớn, khiến việc xây dựng thương hiệu toàn cầu gặp nhiều trở ngại.
Tóm lại,
chiến lược phát triển của dệt may Việt Nam trong thời gian tới là: không tăng
lao động, tăng giá trị gia tăng, tăng tiền lương, tập trung phát triển chuỗi
cung ứng nguyên liệu trong nước để tối đa hóa thặng dư và sử dụng công nghệ để
nâng cao năng suất, qua đó đảm bảo ngành dệt may tiếp tục là động lực tăng trưởng
bền vững cho nền kinh tế”.

“Tôi về Việt
Nam vào đầu năm 1985 khi đất nước còn nhiều khó khăn và muốn góp phần mở cánh cửa
hội nhập của Việt Nam ra thế giới. Tôi đã có cơ hội tham gia đàm phán ký kết hiệp
định hàng không giữa Việt Nam và Philippines, mở đường bay chính thức đầu tiên
từ TP.Hồ Chí Minh đến Thủ đô Manila. Đường bay này không chỉ phục vụ vận tải
hàng hóa, hành khách mà còn là con đường của niềm tin, khát vọng hội nhập, đặt
nền móng cho một Việt Nam đổi mới, kết nối mạnh mẽ hơn với khu vực và quốc tế.
Doanh nhân
không chỉ tạo ra giá trị kinh tế mà còn phải gắn sự phát triển của doanh nghiệp
với sự phát triển của đất nước và cộng đồng.
Chúng ta
đang sống trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược giữa các cường
quốc, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, thách thức năng lượng, biến đổi khí hậu
cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo. Doanh nghiệp
nào chậm chân sẽ bị bỏ lại phía sau.
Trong bối
cảnh này, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn như hạn chế về
vốn, công nghệ, quản trị, thiếu nhân lực chất lượng cao và Nhà nước chưa thật sự
có chính sách đồng bộ để hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên,
chính trong gian khó, bản lĩnh, sự sáng tạo và kiên cường của doanh nhân Việt
Nam sẽ tỏa sáng. Gần 4 thập kỷ qua, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã không ngừng
lớn mạnh, trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc hội nhập, phát triển đất
nước. Từ những tập đoàn, doanh nghiệp tiên phong, đưa hàng trăm thương hiệu quốc
tế vào Việt Nam, kiến tạo hệ sinh thái bán lẻ, hàng không, tài chính, công nghệ
và giáo dục, cho đến những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, dấn thân trong những
lĩnh vực mới mẻ, tất cả cùng góp phần khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Những
thành quả này là minh chứng rõ ràng rằng doanh nhân Việt Nam có khát vọng, năng
lực và tầm vóc để cạnh tranh công bằng với thế giới. Doanh nhân không chỉ mang
lại giá trị kinh tế mà còn tạo cơ hội việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng
hành cùng nhiều chương trình xã hội, thể hiện tinh thần trách nhiệm với cộng đồng
và đất nước.
Tuy nhiên,
để khát vọng trên được thực hiện hóa trọn vẹn, cộng đồng doanh nhân Việt Nam rất
cần sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo môi trường thuận lợi của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ và các cơ quan chức năng.
Cần có một
cơ chế chính sách minh bạch, ổn định và nhất quán. Cải cách thể chế thực chất,
giảm rào cản, thủ tục, tạo môi trường minh bạch và thông suốt sẽ là nền tảng
quan trọng để doanh nhân tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, cùng nhau xây dựng
một nền kinh tế Việt Nam lớn mạnh và tự chủ.
Tập đoàn
Liên Thái Bình Dương cam kết sẽ tiếp tục đầu tư mạnh vào những lĩnh vực có thể
góp phần tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc cho đất nước chúng ta. Việt Nam sẽ
không chỉ trở thành một nền kinh tế thịnh vượng, mà còn vươn tầm sánh vai cùng
cường quốc năm châu”.

“Nghị quyết
57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị với định hướng lấy khoa học, công nghệ,
chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm trung tâm đột phá; trong khi Nghị quyết số
68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là động lực
quan trọng nhất của nền kinh tế chính là lời giải cho câu hỏi: “Làm thế nào để
thay đổi đất nước?”.
Rõ ràng, đất
nước chỉ có thể thay đổi bằng cách tiếp cận mới, trong đó khoa học, công nghệ,
chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo phải trở thành động lực then chốt giải quyết các
vấn đề cốt lõi như năng suất lao động, giá trị gia tăng, cũng như gia tăng năng
lực nội sinh để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Kể từ khi
bộ tứ trụ cột (Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW, Nghị quyết 66-NQ/TW,
Nghị quyết 68-NQ/TW) được ban hành, các doanh nghiệp công nghệ như CMC rất phấn
khởi. Nay với hai nghị quyết mới là Nghị quyết 71-NQ/TW và Nghị quyết 72-NQ/TW,
được xem như “bộ lục nghị quyết” tạo nên hệ thống chính sách đầy đủ, toàn diện
thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Vấn đề
quan trọng hiện nay không còn là định hướng, mà làm sao triển khai nhanh chóng
và hiệu quả các chính sách từ Trung ương.
Ở các quốc
gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, những doanh nghiệp lớn thường đóng vai trò đầu
tàu dẫn dắt, kéo các doanh nghiệp nhỏ. Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam còn nhiều khó khăn, nên nếu chỉ trông chờ vào hỗ trợ lãi suất hay các
ưu đãi khác thì chưa đủ. Chúng ta cần những doanh nghiệp lớn dẫn dắt mạnh mẽ để
tạo cú hích cho toàn bộ hệ sinh thái.
Bài học từ
Ấn Độ rất đáng để suy ngẫm, từ một quốc gia gia công, nay đã vươn lên trở thành
cường quốc công nghệ thông tin. Điều này có nghĩa giai đoạn gia công không hề xấu,
nhưng quan trọng chúng ta phải biết chuyển đổi từ người làm thuê trở thành làm chủ.
Trung Quốc
cũng đã rút ngắn giai đoạn gia công, đi thẳng vào việc phát triển sản phẩm và
xây dựng thương hiệu toàn cầu. Việt Nam cũng cần hướng tới làm chủ công nghệ, tạo
ra sản phẩm trí tuệ và xây dựng thương hiệu quy mô quốc tế, thay vì mãi quen với
vai trò “người làm thuê”.
Khi CMC giới
thiệu công nghệ AI của mình tại Nhật Bản năm 2024, nhiều đối tác đã ngạc nhiên
và thừa nhận: hôm nay họ mới biết Việt Nam cũng có công ty công nghệ phát triển
AI. Điều này cho thấy bằng tri thức, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng giá trị
và khẳng định vị thế với bạn bè thế giới.
Trong
ngành dệt may, không nên tập trung sản xuất nguyên phụ liệu chỉ để nâng tỷ lệ
hàm lượng nội địa trong chuỗi giá trị, bởi hậu quả là dễ gây ô nhiễm và cũng
không mang lại nhiều giá trị. Thay vào đó, doanh nghiệp Việt nên đầu tư xây dựng
một thương hiệu mang tầm cỡ toàn cầu.
Tương tự
khi đo lường giá trị gia tăng của ngành kinh tế số, không thể đơn thuần nhìn
vào tỷ lệ nhập khẩu phần cứng cao để kết luận giá trị gia tăng của ngành còn thấp.
Việt Nam
hiện đứng thứ 5 thế giới về sản xuất phần mềm và top 3 thế giới về xuất khẩu phần
mềm, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Điều này khẳng định Việt Nam có nền tảng và
tiềm lực rất lớn trong lĩnh vực công nghệ. Vị thế của Việt Nam hiện nay đã rất
khác so với 30 năm trước.
CMC từng
đi lên từ gia công và học hỏi công nghệ, nhưng đến nay, chúng tôi có những sản
phẩm công nghệ được xếp hạng trong Top 12 thế giới, theo đánh giá của Viện Tiêu
chuẩn Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng đã thực hiện chuyển đổi số cho các tập đoàn hàng đầu
Nhật Bản như Honda, giúp họ thay đổi quy trình thiết kế, nâng năng suất lên
30%. Đây là minh chứng cho năng lực và tiềm lực công nghệ Việt Nam”.

“Trong bối
cảnh nền kinh tế toàn cầu đang chuyển mình mạnh mẽ, khái niệm “kinh tế
không gian tầm thấp” (Low Altitude Economy- LAE) nổi lên như một xu hướng
mới đầy tiềm năng.
LAE được định
nghĩa là một nền kinh tế hoàn chỉnh hoạt động trong không gian từ mặt đất lên đến
3.000m, đang được xem là động lực tăng trưởng bứt phá cho nhiều quốc gia.
Kinh tế
không gian tầm thấp, không chỉ là một phát kiến mới mà còn là một “nền kinh tế”
hoàn chỉnh với đầy đủ các yếu tố cần thiết. Đặc biệt, với khả năng giải quyết
các vấn đề về kinh tế xanh và kinh tế số, hai lĩnh vực đang được chú trọng
trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuyển đổi số toàn cầu.
Minh chứng
rõ nhất trong lĩnh vực nông nghiệp, một máy bay không người lái (UAV) trong một
ngày có thể phun thuốc, giám sát cho 67 ha cây trồng, trong khi một lao động
lành nghề chỉ xử lý được tối đa một ha. Tương tự, trong ngành điện, một giờ làm
việc của UAV có thể tương đương với ba ngày công của một công nhân kiểm tra đường
dây.
Trên thế
giới, xu hướng này đang bùng nổ mạnh mẽ, tại Trung Quốc đã triển khai LAE từ
năm 2023 với quy mô ban đầu khoảng 69,8 tỷ USD. Dự báo năm 2025, quy mô thị trường
này sẽ đạt trên 500 tỷ USD. Nhiều tỉnh, thành phố tại Trung Quốc đã xác định
LAE là động lực tăng trưởng mới. Tại Indonesia, Ủy ban Kinh tế không gian tầm
thấp đã được thành lập từ năm 2024, cho thấy sự quyết tâm của các quốc gia
trong khu vực.
Đối với Việt
Nam, việc phát triển LAE không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn hứa hẹn mang lại
những lợi ích chiến lược.
Thứ nhất, phát triển LAE tạo ra giá trị gia
tăng khổng lồ. LAE được xem như một “ánh xạ” của toàn bộ nền kinh tế mặt đất
lên không trung, bao phủ mọi lĩnh vực từ nông nghiệp, logistics, xây dựng, năng
lượng đến du lịch, an ninh– quốc phòng. Sự kết hợp giữa các lĩnh vực này sẽ tiếp
tục tạo ra những mô hình kinh doanh mới.
Thứ hai, cung cấp công cụ hiệu quả để giải
quyết các thách thức lớn của quốc gia như an ninh lương thực, tắc nghẽn giao
thông, ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và an ninh quốc phòng. Đồng
thời, LAE có thể thay đổi hoàn toàn quy hoạch đô thị, cải thiện chỉ số hạnh
phúc cho người dân.
Thứ ba, nâng cao năng lực tự chủ về công
nghệ. LAE là một “nền kinh tế” tích hợp nhiều công nghệ cao và khi làm chủ được
nó, Việt Nam không chỉ làm chủ chuỗi công nghệ mà còn có vị thế khác biệt trên
trường quốc tế.
Thứ tư, phát triển LAE hoàn toàn phù hợp với
nguồn lực và điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, mở ra cơ hội lớn
không chỉ cho nền kinh tế mà còn cho các doanh nghiệp trong nước.
CT Group
cũng đã có những bước đi tiên phong trong triển khai kinh tế không gian tầm thấp
tại Việt Nam, đồng thời hợp tác với các quốc gia khác như Indonesia để mở rộng
quy mô và ứng dụng.
Tuy nhiên,
để hiện thực hóa tiềm năng này, cần có những chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ
như: hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế thử nghiệm (sandbox) cho các
mô hình mới, cùng với các giải pháp cụ thể như cơ chế đặt hàng, chính sách thuế,
ưu tiên về tần số và liên kết điều khiển.
Những yếu
tố này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và ứng dụng kinh tế không gian
tầm thấp, đồng thời đảm bảo an ninh và an toàn trong quá trình triển khai”.

“Thống kê
cho thấy Việt Nam hiện có khoảng 1 triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), bên cạnh
đó là 5 triệu doanh nghiệp hộ kinh doanh cá thể.
Hàng năm,
tổng mức nhu cầu vốn cần cho 6 triệu doanh nghiệp này là 5 triệu tỷ đồng, trong
đó phần huy động trái phiếu doanh nghiệp 200 nghìn tỷ đồng một năm, huy động vốn
từ phát hành cổ phiếu là 100 nghìn tỷ đồng. Như vậy, 5 triệu tỷ đồng nhu cầu vốn
thì 95% đến từ vay ngân hàng, còn lại 5% đến từ trái phiếu và phát hành cổ phiếu.
Sự chênh lệch
này thể hiện muốn đi vay phải có tài sản thế chấp, tài sản thế chấp quyết định
doanh nghiệp nhỏ và vừa có vay được vốn hay không. Phần còn lại trái phiếu, cổ
phiếu tương đối không liên quan đến tài sản thế chấp hoặc rất nhỏ.
Để tiếp cận
được nguồn vốn thay cho vốn tín dụng, tiếp cận rộng hơn vốn trái phiếu doanh
nghiệp hay phát hành cổ phiếu một trong những điều quan trọng là sự minh bạch
hóa thông tin.
Một trong
những đề xuất để doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được nguồn vốn là hình thành
hệ thống xếp hạng tín nhiệm, hệ thống này sẽ quyết định doanh nghiệp nhỏ và vừa
được tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hay khó khăn hơn.
Khi hình
thành hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa tầm quốc gia, đơn vị
cung cấp vốn dễ dàng nhìn vào doanh nghiệp ở mức tín nhiệm AAA hay BB để đánh
giá xem doanh nghiệp nên được tiếp cận vay vốn thế nào, thực hiện ra sao.
Tôi tin rằng
với một hệ thống xếp hạng tín nhiệm minh bạch, hiệu quả tầm quốc gia xây dựng
riêng cho khối doanh nghiệp nhỏ và vừa thì cơ hội mở ra cho khối doanh nghiệp
này tiếp cận các nguồn vốn cực kỳ lớn, tạo động lực cho họ tăng năng lực cạnh
tranh trong kỷ nguyên mới của đất nước”.

“Chúng tôi
rất tự tin vào năng lực phát triển của nền kinh tế Việt Nam, vì vậy, Việt Nam
luôn được Grab coi là một trong những thị trường trọng điểm. Đây cũng là lý do
từ năm 2017, Grab đã lựa chọn TP.Hồ Chí Minh để thành lập Trung tâm Công nghệ đổi
mới sáng tạo. Mục tiêu của chúng tôi là hỗ trợ, thu hút và đào tạo nhân tài
công nghệ để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Đồng thời, những nhân tài
này không chỉ tham gia vào các dự án tại Việt Nam mà còn có cơ hội trau dồi
kinh nghiệm thông qua việc làm việc ở các dự án khu vực.
Từ những
kinh nghiệm thực tiễn đó, để có thể phát triển mạnh mẽ trong tiến trình thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp tại Việt Nam cần phải có những có những giải
pháp cụ thể cho định hướng phát triển của mình.
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần tích cực thúc
đẩy mối quan hệ đa phương; không chỉ là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, mà
còn giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Đặc biệt, khi có sự hợp tác, chia sẻ kinh
nghiệm, học hỏi lẫn nhau và tận dụng thế mạnh của nhau, các doanh nghiệp mới có
thể xây dựng và triển khai các chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo một cách
hiệu quả và nhanh chóng nhất.
Thứ hai, cần hình thành một môi trường thử
nghiệm an toàn cho doanh nghiệp. Đổi mới sáng tạo tất yếu phải đi kèm với thử
nghiệm nhưng thử nghiệm thì luôn gắn với rủi ro. Điều quan trọng là cần phải chấp
nhận rủi ro, chấp nhận thất bại và nhanh chóng khắc phục để hoàn thiện hơn.
Với định
hướng này, Chính phủ có thể hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách tạo ra các môi trường
thử nghiệm sandbox an toàn và có kiểm soát, giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể tự tin thử nghiệm công nghệ mới, cảm thấy mình
đang làm đúng và được bảo vệ. Đồng thời, sự hỗ trợ này cũng giúp doanh nghiệp
yên tâm bắt kịp xu hướng công nghệ của khu vực.
Thứ ba, cần đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng
dữ liệu. Hiện nay, dữ liệu đã trở thành một tài sản vô cùng quan trọng đối với
doanh nghiệp. Vì vậy, cần có sự đầu tư bài bản để khai thác hiệu quả cơ sở hạ tầng
dữ liệu, qua đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo thành công. Để thực hiện điều này,
doanh nghiệp cần cam kết đầu tư vào hệ thống quản lý và nguồn lực, vừa để khai
thác dữ liệu hiệu quả, vừa đảm bảo an toàn và bảo mật, tạo dựng niềm tin với
người tiêu dùng cũng như với Chính phủ.
Ngoài ra,
các doanh nghiệp cần hiểu rằng công nghệ trước hết phải phục vụ người tiêu
dùng. Trong quá trình chạy đua công nghệ, điều quan trọng là phải xác định nhu
cầu thực sự của khách hàng và công nghệ mà mình theo đuổi có thể giải quyết vấn
đề gì cho cho người dùng. Đây là yếu tố tất yếu để doanh nghiệp có thể thành
công trên con đường đổi mới sáng tạo”.

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 40-2025 phát hành ngày 6/10/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-40-2025.html

–