Sáng 27/11, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Việc làm (sửa đổi).
MỨC HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP KHÔNG ĐỦ ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG TỐI THIỂU
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh, đoàn tỉnh Quảng Nam, cho rằng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng hiện nay bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp là thấp, không đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động. Theo đó, đại biểu đề nghị nâng mức hưởng này lên 75%, bằng với mức hưởng lương hưu tối đa hiện nay.
“Đây là mong mỏi của rất nhiều người lao động, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ họ có cuộc sống tối thiểu khi mất việc làm, thất nghiệp, và hạn chế rút bảo hiểm xã hội một lần”, nữ đại biểu đoàn Quảng Nam nhấn mạnh.
Góp ý về nội dung này, đại biểu Điểu Huỳnh Sang, đoàn tỉnh Bình Phước, cho rằng việc sửa đổi Luật Việc làm là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu về quản lý Nhà nước; giải quyết các vấn đề liên quan đến việc làm bền vững; xu hướng phát triển kinh tế- xã hội phù hợp với hội nhập quốc tế…
Về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu Điểu Huỳnh Sang băn khoăn trong trường hợp, nếu người lao động bị sa thải hoặc buộc thôi việc trái pháp luật, họ vẫn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các vụ việc này có thể kéo dài vài năm. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi người lao động, đại biểu đề nghị dự thảo Luật làm rõ trong thời gian này, người lao động có được hưởng trợ cấp thất nghiệp hay không.
Liên quan đến mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu cho biết hiện nay, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng chỉ bằng 60% mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố tại tháng cuối cùng đóng bảo hiểm thất nghiệp.
“Thực tế hiện nay mức hưởng trợ cấp thất nghiệp này không đủ chi phí cá nhân cho người lao động, chứ chưa kể đến chi phí gia đình, vì hầu hết doanh nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức lương tối thiểu vùng (khoảng 4 triệu đồng/tháng), mức trợ cấp chỉ khoảng 2,5 triệu đồng/tháng”, đại biểu Điểu Huỳnh Sang dẫn chứng.
Vì vậy, đại biểu đề nghị cần rà soát, tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng từ 60% lên 75% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, để phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện nay.
Về thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, dự thảo Luật quy định được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Với quy định này, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét có thể bỏ quy định “nhưng tối đa không quá 12 tháng”, vì theo nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng đến đâu hưởng đến đó.
Đồng thời, không giới hạn thời gian hưởng để tương thích với quy định của Bộ luật Lao động về trợ cấp thôi việc. Đó là, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên.
Mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, mà không giới hạn thời gian hưởng. Thời gian hưởng trợ cấp thôi việc này cũng thống nhất với quy định về bảo hiểm thất nghiệp hiện nay.
BỔ SUNG TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG KHI CHẬM ĐÓNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Cũng quan tâm về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân, đoàn tỉnh Bình Dương, cho rằng các chế độ trợ cấp thất nghiệp, tư vấn, hỗ trợ học nghề được thiết kế để người lao động nhanh chóng tìm được việc làm, giảm thời gian thất nghiệp, sớm quay trở lại thị trường lao động, ổn định cuộc sống, xã hội.
Tuy nhiên, các chế độ này cũng không thể thay thế cho toàn bộ thu nhập của người lao động trong thời gian dài, vì mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hiện nay chỉ bằng 60% mức bình quân tiền lương hằng tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Do đó trên cơ sở cân đối kết dư Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian qua, đại biểu kiến nghị nên xem xét theo hướng tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 70% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi thất nghiệp.
Mức hưởng hằng tháng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng, nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố.
“Việc này nhằm hỗ trợ người lao động có thu nhập ổn định cuộc sống gia đình, tập trung tìm việc làm mà không phải lo lắng về tài chính. Đồng thời, quy định này sẽ khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, góp phần tăng nguồn thu cho Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp và hiệu quả chính sách”, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đang quy định trong trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng, hoặc trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động được phép sử dụng tiền của mình nộp vào quỹ bảo hiểm để được hưởng các chế độ.
Đại biểu cho rằng quy định này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và có thể gây bức xúc, vì doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm mà người lao động phải tự nộp.
Trong trường hợp này, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động nếu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động. Đồng thời có quy định về chế tài xử phạt cụ thể đối với các hành vi vi phạm.
“Từ đó cho thấy rằng việc đóng bảo hiểm thất nghiệp không chỉ là quyền lợi của người lao động, mà còn là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của người sử dụng lao động”, đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu, trong trường hợp doanh nghiệp không đóng, hoặc nợ bảo hiểm thất nghiệp, cơ quan Bảo hiểm có thể tạm ứng để người lao động không bị gián đoạn quyền lợi, và bổ sung quy định buộc doanh nghiệp hoàn trả toàn bộ số tiền bảo hiểm thất nghiệp đã bị trốn đóng, kèm lãi suất tương ứng.
Song, dưới góc độ doanh nghiệp, đại biểu đề nghị xem xét áp dụng cơ chế giãn, hoãn hoặc giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, đặc biệt trong các tình huống kinh tế khó khăn, thiên tai, dịch bệnh.
Qua đó, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, hiệu quả hơn trong việc quản lý bảo hiểm thất nghiệp. Đồng thời, đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi của người lao động và khả năng tuân thủ của doanh nghiệp, hướng tới một môi trường lao động công bằng và bền vững.