Tại họp báo, Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk cho biết với quan hệ thân tình giữa hai đất nước như những người bạn, “hai đất nước có nhiều trải nghiệm giống nhau trong quá khứ”, cuộc hội đàm với Thủ tướng Phạm Minh Chính là trải nghiệm quý báu với cá nhân ông.
Hai bên đã thảo luận về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, cũng như về các biện pháp để tiếp tục phát huy những điểm chung, thúc đẩy đưa quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai đất nước tiếp tục phát triển trên các lĩnh vực.
Nhấn mạnh Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề cập những vấn đề quan trọng, những bước đi tiếp theo, Thủ tướng Ba Lan đặc biệt đánh giá cao phía Việt Nam đã quyết định áp dụng miễn thị thực ngắn hạn cho công dân Ba Lan, điều này sẽ giúp ngày càng có nhiều du khách Ba Lan tới thăm Việt Nam.
Đồng thời, người đứng đầu Chính phủ Ba Lan khẳng định nước này sẽ sớm phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA).
Thủ tướng Ba Lan nhấn mạnh hợp tác kinh tế giữa hai nước có vai trò quan trọng, và Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh cho thế giới với những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế.
Thủ tướng Ba Lan tin rằng hợp tác kinh tế giữa hai bên sẽ đạt những tầm cao mới trên nhiều lĩnh vực, trong đó có nâng cao kim ngạch thương mại theo hướng cân bằng hơn, cũng như có thêm nhiều ý tưởng nữa cho đầu tư song phương, đặc biệt là hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng – an ninh.
Một lĩnh vực quan trọng khác được Thủ tướng Ba Lan đề cập là tăng cường hợp tác giữa hai khu vực EU và ASEAN. Ông cảm ơn Thủ tướng Phạm Minh Chính luôn ủng hộ sự hợp tác này.
Về phần mình, Thủ tướng Phạm Minh Chính hoàn toàn tán thành với các chia sẻ của Thủ tướng Donald Tusk.
Thủ tướng nhấn mạnh Việt Nam không bao giờ quên tình cảm, sự ủng hộ quý báu mà Ba Lan dành cho Việt Nam trong suốt 75 năm qua, đặc biệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ đất nước ngày nay. Ba Lan cũng là một trong những nước đầu tiên trong Liên minh châu Âu (EU) hỗ trợ Việt Nam trong giai đoạn dịch COVID-19.
“Dù thế giới có thay đổi, dù tình hình khó khăn hay phức tạp thì giá trị cốt lõi, tình cảm của nhân dân 2 nước, hai dân tộc cũng không thay đổi và không những không thay đổi mà càng sâu sắc, toàn diện, hiệu quả hơn”, Thủ tướng nêu rõ.
Thủ tướng cho biết quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Ba Lan đang phát triển tích cực trên tất cả cả lĩnh vực. Tin cậy chính trị được củng cố và phát triển; duy trì trao đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao, tích cực ủng hộ nhau tại các diễn đàn quốc tế, đa phương.
Hợp tác thương mại – đầu tư phát triển mạnh mẽ. Ba Lan là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở Trung Đông Âu; kim ngạch thương mại hai chiều tăng liên tục, năm 2024 đạt trên 3,2 tỷ USD, tăng hơn 14% so với năm 2023.
“Trong khó khăn, chúng ta vẫn tìm ra được con đường tốt nhất để đến với nhau, hợp tác và phát triển. Việt Nam xác định quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, trong đó có Ba Lan, là một ưu tiên trong tổng thể quan hệ đối ngoại”, Thủ tướng cho biết.
CÒN NHIỀU DƯ ĐỊA HỢP TÁC
Hai bên thống nhất đánh giá hai nước còn nhiều dư địa để hợp tác mạnh mẽ hơn nữa, tương xứng với tiềm năng và mong muốn của hai bên; thống nhất về các định hướng, biện pháp thúc đẩy hợp tác hai nước, với 06 nhóm biện pháp trọng tâm.
Theo đó, tăng cường hơn nữa tin cậy chính trị, tạo cơ sở vững chắc sớm nâng quan hệ hai nước lên tầm cao mới xứng tầm truyền thống 75 năm; tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn và tiếp xúc các cấp, nhất là cấp cao.
Cùng với đó, đưa hợp tác kinh tế trở thành trụ cột quan trọng của quan hệ song phương; phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều sớm đạt 5 tỷ USD. Xem xét thành lập Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế giữa hai nước. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề nghị Ba Lan sớm phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA); ủng hộ EC sớm gỡ bỏ thẻ vàng IUU đối với hải sản xuất khẩu của Việt Nam.
Hai bên cũng thống nhất đổi mới và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác quốc phòng – an ninh. Hai bên sẽ tăng cường hợp tác về gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ Liên hợp quốc và công nghiệp quốc phòng; chia sẻ kinh nghiệm và phối hợp phòng chống tội phạm công nghệ cao, xuyên quốc gia; đẩy mạnh hợp tác về an ninh mạng; hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất máy bay không người lái (UAV).
Cùng với đó, tăng cường hợp tác giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, nhất là trong những lĩnh vực Ba Lan có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, an ninh mạng, địa chất, đóng tàu… Đây là lĩnh vực hợp tác truyền thống và là thế mạnh hai bên cần tiếp tục phát huy.
Về thúc đẩy hợp tác lao động, văn hóa – thể thao – du lịch, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Việt Nam đã quyết định sẽ áp dụng miễn thị thực ngắn hạn cho công dân Ba Lan trong khuôn khổ Chương trình kích cầu du lịch Việt Nam trong năm 2025. Ở chiều ngược lại, đề nghị phía Ba Lan tạo thuận lợi trong việc cấp thị thực cho du khách Việt Nam.
Thủ tướng cũng cảm ơn và đề nghị Ba Lan tiếp tục tạo thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng người Việt sinh sống và phát triển; nghiên cứu xác định cộng đồng người Việt tại Ba Lan là dân tộc thiểu số của nước này.
Hai bên thống nhất, tăng cường phối hợp chặt chẽ, tham vấn và ủng hộ lẫn nhau trong các vấn đề khu vực và quốc tế tại các diễn đàn quốc tế, đa phương, đặc biệt là tại Liên Hợp Quốc. Thủ tướng Phạm Minh Chính kỳ vọng hai bên tăng cường hợp tác cùng nhau và cùng các nước thế giới để góp phần giải quyết các vấn đề toàn dân, toàn diện, toàn cầu trên cơ sở đề cao chủ nghĩa đa phương, kêu gọi tăng cường hợp tác quốc tế, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam cũng đề nghị Ba Lan phát huy vai trò Chủ tịch luân phiên EU trong 6 tháng đầu năm 2025, tiếp tục thúc đẩy hợp tác ASEAN – EU, Việt Nam – EU. Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Ba Lan đẩy mạnh hợp tác với ASEAN và các quốc gia Đông Nam Á khác.
Về Biển Đông, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị Ba Lan và EU tiếp tục có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ lập trường, quan điểm của Việt Nam và ASEAN về giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).