Bộ GTVT đề xuất phân loại nhà cung cấp thu phí ETC
Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa đề nghị Chính phủ xem xét ban hành Nghị định của Chính phủ quy định về thanh toán điện tử giao thông đường bộ và đề xuất phân loại nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đường bộ thành hai đối tượng.
Theo đó, Bộ GTVT đề xuất phân loại nhà cung cấp như sau:
Một là, nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ để thu tiền sử dụng đường bộ (bao gồm nhà cung cấp dịch vụ thu phí được quản lý theo Quyết định 19/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
Các nhà cung cấp dịch vụ này sẽ thực hiện phát hành thẻ đầu cuối, mở tài khoản giao thông… thực hiện đồng bộ tài khoản giao thông lên hệ thống quản lý tài khoản giao thông thuộc cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ.
Các nhà cung cấp dịch vụ này được cung cấp dịch vụ khác (thu phí bãi đỗ xe…) nếu hợp đồng với cơ quan có thẩm quyền cho phép.
Hai là, nhà cung cấp dịch vụ thanh toán giao thông đường bộ không tham gia thu tiền sử dụng đường bộ. Các đơn vị này sẽ được kết nối, chia sẻ thông tin tài khoản giao thông từ hệ thống quản lý tài khoản giao thông tập trung để thực hiện thu các dịch vụ liên quan đến phương tiện như thu phí bãi đỗ xe.
Để triển khai Nghị định, Bộ GTVT cho rằng, sẽ hình thành thêm hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thanh toán điện tử giao thông đường bộ. Hiện nay, mới có 2 nhà cung cấp dịch vụ thu phí là Công ty TNHH Thu phí tự động VETC và Công ty Cổ phần Giao thông số VN được Bộ GTVT lựa chọn.
Việc Chính phủ xem xét ban hành Nghị định của Chính phủ quy định về thanh toán điện tử giao thông đường bộ và đề xuất phân loại nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử giao thông đang nhận được nhiều sự quan tâm tới các nhà cung cấp, chuyên gia trong lĩnh vực thu phí giao thông.
Về vấn đề triển khai thu phí điện tử điện giao thông, PGS. TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) cho biết, sự phát triển của hệ thống thu phí không dừng ETC là tất yếu để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ.
Hệ thống thu phí không dừng ETC giúp giảm ùn tắc giao thông, giảm lượng khí thải và nâng cao hiệu quả hoạt động giao thông. Hệ thống ETC cung cấp các giải pháp bền vững cho những thách thức về di chuyển trong và ngoài đô thị.
Theo PGS. TS. Vũ Minh Khương, trong tương lai vẫn cần tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ và nỗ lực hợp tác giữa các bên liên quan là điều cần thiết để hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng của công nghệ thu phí không dừng ETC trong việc tạo ra mạng lưới giao thông thông minh hơn, hiệu quả hơn.
Trong những năm qua, PGS. TS. Vũ Minh Khương đã cùng nhóm cộng sự của mình nghiên cứu về phương thức “Triển khai thu phí điện tử (ETC) trên cao tốc”. Đặc biệt, là nghiên cứu quá trình chuyển đổi hệ thống thu phí không dừng ETC để quản lý đường cao tốc, các mô hình tương tự và lợi ích đo lường được qua con số; Quá trình chuyển đổi tại Trung Quốc và Ấn Độ, đến việc chi tiết hóa những lợi ích tiềm năng của việc triển khai ETC trên đường cao tốc. Qua đó, tìm ra các phương thức triển khai thu phí không dừng ETC trên đường cao tốc tại Việt Nam.
Theo Báo cáo, thị trường thu phí không dừng ETC toàn cầu đã có sự tăng trưởng đáng kể, đạt 9,2 tỷ USD vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 9,4% kể từ năm 2020 và dự đoán sẽ tiếp tục giữ tốc độ CAGR 8,10%, đạt 14,7 tỷ USD vào năm 2029, chủ yếu nhờ việc áp dụng thu phí không dừng ETC tại các tuyến cao tốc (chiếm khoảng 90% thị trường).
Hai công nghệ chủ yếu đang được triển khai là RFID và DSRC tồn tại song song dựa trên nhu cầu và khả năng cơ sở hạ tầng ở từng thị trường, trong đó RFID (công nghệ đang áp dụng tại Việt Nam) vượt trội hơn DSRC cả về thị phần và tốc độ tăng trưởng.
Thu phí không dừng ETC tạo ra nhiều lợi ích
Tại Việt Nam, tính đến năm 2021, Việt Nam 1.290 km đường cao tốc và đang đặt mục tiêu có 5.000 km vào năm 2030. Quá trình đó cũng gắn liền với việc chuyển đổi quyết liệt từ hệ thống thu phí thủ công (MTC) sang thu phí không dừng ETC trên các tuyến quốc lộ, cao tốc từ 2019 đến nay.
Việt Nam triển khi thu phí không dừng ETC đã giúp giảm đáng kể thời gian di chuyển, loại bỏ tình trạng tắc nghẽn giao thông tại các trạm thu phí, giảm mức tiêu thụ nhiên liệu và giảm lượng khí thải tương đương CO2. Qua đó, hiệu quả vận chuyển, môi trường và sức khỏe cộng đồng được cải thiện rõ rệt.
Thu phí không dừng ETC của ngành GTVT Việt Nam đã tạo ra “dấu ấn” vào năm 2023, năm đầu tiên triển khai đầy đủ ETC trên đường cao tốc cả nước. Tổng lượng khí thải CO2 giảm được lên tới 191.860 tấn, nhờ giảm 60.816 tấn xăng và nhiên liệu diesel tiêu thụ tại các trạm thu phí.
Cùng năm đó, xã hội tiết kiệm được 93,3 triệu giờ cho nhân lực và 37,3 triệu giờ cho tuổi thọ của phương tiện. Xét về giá trị tương đương bằng tiền, báo cáo chỉ ra tổng chi phí tiết kiệm được cho năm 2023 qua bốn thước đo – năng lượng, nhân lực, tuổi thọ phương tiện và chi phí vận hành lên tới 442,7 triệu USD.
Theo PGS. TS. Vũ Minh Khương, so với thời điểm bắt đầu thúc đẩy thu phí không dừng ETC năm 2019, lợi ích của việc giảm lượng khí thải tương đương CO2 và tổng tiết kiệm tương đương tiền đã tăng 14 lần. Tính chung cả giai đoạn 2019 – 2023, lợi ích mà Việt Nam có được từ việc triển khai thu phí không dừng ETC tương đương giá trị gần 1 tỷ USD.
PGS. TS. Vũ Minh Khương và nhóm cộng sự đã chỉ ra rõ những chuyển đổi tích cực từ việc triển khai thu phí không dừng ETC tại Việt Nam giúp cho ngành GTVT tiếp cận chủ động.
Đặc biệt, có được sự điều phối quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi.
Tại Việt Nam, việc Chính phủ thành lập tổ công tác chuyên trách nhằm thúc đẩy việc áp dụng công nghệ trong phát triển cơ sở hạ tầng đã giúp quá trình triển khai ETC vượt qua những trở ngại ban đầu, thực thi các quyết định nhanh chóng trên diện rộng.
Sự tham gia của các công ty tư nhân trong việc triển khai và quản lý cơ sở hạ tầng thu phí không dừng ETC đã nâng cao hiệu quả, tốc độ triển khai và hoạt động. Quan hệ đối tác công – tư ở Việt Nam đã thúc đẩy sự đổi mới và hiệu quả, tận dụng chuyên môn và nguồn lực của khu vực tư nhân để đẩy nhanh việc áp dụng và nâng cao hiệu quả của hệ thống.
Việc triển khai hệ thống ETC cũng đánh dấu sự khởi đầu của quá trình chuyển đổi kỹ thuật số rộng hơn trong lĩnh vực vận tải, giao thông thông minh. ETC tạo ra dữ liệu có giá trị để quản lý lưu lượng nâng cao, phân tích kinh tế và ra quyết định kinh doanh.
Các ứng dụng tiềm năng của ETC nên được mở rộng sang các hệ thống thanh toán kỹ thuật số tương tự cho thu phí nội đô, bãi đậu xe (e-parking), đổ xăng không tiền mặt hoặc các cơ sở thu phí khác.