• Vietnamleads
  • Liên hệ
02/10/2025
Vietnamleads
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
  • Thị trường
  • Doanh nghiệp
  • Đầu tư
  • Hạ tầng
  • Tài chính
    • Ngân hàng
    • Bảo hiểm
  • Chuyển đổi số
    • Số hóa
  • Chính sách
  • To Foreigner
    • Opportunities
    • Policy & Regulation
  • Thị trường
  • Doanh nghiệp
  • Đầu tư
  • Hạ tầng
  • Tài chính
    • Ngân hàng
    • Bảo hiểm
  • Chuyển đổi số
    • Số hóa
  • Chính sách
  • To Foreigner
    • Opportunities
    • Policy & Regulation
VNL
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
VNL Đầu tư

Tăng cường nội lực và phát triển kinh tế bền vững

01/10/2025
0 0
A A
0
Tăng cường nội lực và phát triển kinh tế bền vững
0
Chia sẻ
Share on FacebookShare on Twitter


VnEconomy

VnEconomy

Xin
ông đánh giá tổng quan về những kết quả đạt được và những hạn chế của mô hình
tăng trưởng hiện nay?

Kinh
tế Việt Nam qua 40 năm Đổi mới đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng (đạt
trung bình 6,7%/năm), đưa nước ta từ một nền kinh tế có quy mô nhỏ trở thành nền
kinh tế có quy mô đứng thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN vào năm
2025 (với GDP đạt khoảng 510 tỷ USD, gấp khoảng gần 64 lần so với năm 1986).
GDP bình quân đầu người năm 2025 đạt khoảng 5.000 USD (thu nhập quốc dân (GNI)
bình quân đầu người khoảng 4.750 USD), đưa nước ta vượt ngưỡng thu nhập trung
bình thấp, trở thành nước có thu nhập trung bình cao.

Quy
mô xuất nhập khẩu hàng hóa không ngừng tăng lên, xếp thứ 20 thế giới. Cơ cấu xuất
khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo,
giảm dần ngành công nghiệp khai khoáng; chuyển dần từ các ngành thâm dụng lao động
sang các ngành công nghiệp công nghệ cao, củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng
cho một số ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử,
cơ khí. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã thay đổi theo hướng hiện đại,
nhiều ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như viễn thông, tài chính ngân
hàng… đã đạt được nhiều bước tiến mạnh mẽ.

Tuy
nhiên, mô hình phát triển và tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn
chế. Tăng trưởng kinh tế ở dưới mức tiềm năng, vẫn chủ yếu theo chiều rộng và
có xu hướng giảm dần. Chất lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng dựa vào các động lực truyền thống đã dần tới
hạn; chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu chưa có nhiều thay đổi đáng kể, vẫn
dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, thâm dụng lao động và vốn đầu tư, trong khi
năng suất lao động và hàm lượng khoa học, công nghệ thấp hơn nhiều nước trong
khu vực và chậm được cải thiện.

Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa nhưng chủ yếu tập trung vào
các ngành gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp phục vụ xuất khẩu, chưa
tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng
đóng góp của khu vực kinh tế trong nước hạn chế (chỉ chiếm khoảng 25% giá trị
xuất khẩu), giá trị xuất siêu chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài;
tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành xuất khẩu không cao, phụ thuộc nhiều vào
nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu.

Các
ngành kinh tế chưa chuyển dịch mạnh. Cơ cấu lại một số lĩnh vực chưa đạt như kỳ
vọng. Phát triển doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chưa khai thác hiệu quả tiềm
năng, lợi thế của các vùng, các cực tăng trưởng. Chất lượng nguồn nhân lực chưa
có chuyển biến rõ nét. Khoa học, công nghệ phát triển chưa như mong muốn và
chưa thực sự trở thành động lực quan trọng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển đất nước.

Liên
kết sản xuất giữa các khu vực kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp yếu, nhất là giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, dẫn đến hiệu quả lan tỏa trong nền
kinh tế chưa cao. Các mô hình kinh tế mới như: kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế
tuần hoàn,… chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng mới; mô hình kinh tế
khai thác không gian tầm thấp (LAE), khai thác không gian ngầm,… chưa được
chú trọng thúc đẩy.


VnEconomy

Theo
ông, đâu là những thách thức từ bối cảnh quốc tế mà nền kinh tế nước ta phải đối
mặt trong thời gian tới. Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng như thế nào để
đạt được mục tiêu đề ra đến năm 2030 và năm 2045?

Bối
cảnh thế giới hiện tại có nhiều yếu tố bất định, khó lường; căng thẳng địa
chính trị, xu hướng bảo hộ thương mại, chủ nghĩa dân tộc ngày càng phổ biến, cạnh
tranh công nghệ, yêu cầu xanh – sức ép số – đòi hỏi bền vững gia tăng, nâng chuẩn
sản xuất và rủi ro cho tăng trưởng kinh tế lớn hơn khi tiếp tục phụ thuộc vào
xuất khẩu mà phần lớn đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong
bối cảnh đó, đòi hỏi Việt Nam cần thiết xác lập mô hình tăng trưởng mới. Phải
làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng
trong nước); đồng thời, phát triển các động lực tăng trưởng mới dựa vào tri thức,
khoa học, đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, nâng cao giá trị nội địa, tăng cường
liên kết giữa các khu vực kinh tế và giữa các doanh nghiệp; phát huy tốt nhất,
hiệu quả nhất các thành phần, khu vực kinh tế; các không gian kinh tế mới và
quan tâm cả góc độ tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế để tạo sức bật, bức
phá phát triển kinh tế Việt Nam nhằm đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đề
ra.

Hiện
nay, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương xây dựng Đề án tổng kết Nghị quyết
05-NQ/TW về đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế và đề xuất các giải pháp chiến
lược cho tăng trưởng hai con số trong kỷ nguyên mới để trình xin ý kiến Bộ
Chính trị. Trong đó, đã đề xuất quan điểm phát triển cho giai đoạn tới đây là cần
xác lập mô hình tăng trưởng mới chủ yếu dựa vào hiệu quả vốn đầu tư, năng suất
lao động, đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; chú trọng
vào đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước, tập trung chủ yếu vào hiệu quả,
chiều sâu, tính bền vững, khả năng tự thích ứng và chống chịu trước các biến động
của bên ngoài; chuyển nhanh sang các ngành, lĩnh vực, công đoạn có hàm lượng
tri thức và công nghệ cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo
đó, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương nhấn mạnh vai trò của ba đột phá chiến
lược; các động lực tăng trưởng mới (như xây dựng đặc khu kinh tế, trung tâm tài
chính quốc tế; các khu thương mại tự do, các không gian phát triển mới, các mô
hình kinh tế mới); khai thác tốt nhất các khu vực kinh tế, các ngành, lĩnh vực
còn dư địa nhằm đạt được các mục tiêu đến năm 2030 và năm 2045, đồng thời phải
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong mọi tình huống, quản lý, giải quyết tốt các
rủi ro có thể gặp phải trong quá trình thực hiện. Từ đó, đề án nhấn mạnh yêu cầu
phải có cách tiếp cận giải quyết vấn đề một cách toàn diện với các giải pháp mang
tính tổng thể.


VnEconomy

Vậy xin ông cho biết một số giải pháp cụ thể mà Ban Chính sách, chiến lược Trung ương
đưa ra nhằm tăng cường nội lực, tự chủ, sức chống chịu của nền kinh tế; nền
kinh tế tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu?

Ban
Chính sách, chiến lược Trung ương đề xuất các giải pháp toàn diện với giải pháp
chung và nhiều giải pháp cụ thể. Trong đó có một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, làm mới các
động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống.

Đối
với xuất khẩu, cần tái cấu trúc chiến lược xuất khẩu, chuyển mạnh từ chiếm lĩnh
thị trường bằng cạnh tranh về giá sang chiến lược xuất khẩu dựa trên thương hiệu,
tiêu chuẩn cao và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, thiết kế, đậm văn hóa Việt.

Thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều sâu, hướng vào lõi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo hướng chú trọng gia tăng giá trị trong nước
trong xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện nhập
khẩu; tăng tỷ trọng hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo công
nghệ trung bình và công nghệ cao, nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có
giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ,
chất xám cao, có tiêu chuẩn xanh cao, tiếp tục giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ
chế trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.

Khuyến
khích doanh nghiệp đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm sự phụ thuộc vào một số đối
tác thương mại lớn, chủ động tìm kiếm thị trường mới. Tham gia chuỗi cung ứng
chiến lược của các nước có tiềm lực khoa học, công nghệ cao. Thúc đẩy tăng trưởng
thương mại với các thị trường có tiềm năng, còn dư địa lớn; với các quốc gia
quan hệ đối tác với Việt Nam.

Tăng
cường đầu tư, tạo chính sách hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp trong nước ở các
ngành dịch vụ, vận tải, bảo hiểm trong nước tham gia nhiều hơn đối với các dịch
vụ phục vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Đổi mới toàn diện hệ thống
xúc tiến thương mại. Tận dụng tốt hơn nữa các cơ hội từ các Hiệp định Thương mại
tự do đã được ký kết. Chủ động, linh hoạt trong ứng phó các biến động bất lợi của
thị trường.

Đối
với tiêu dùng, thực hiện chính sách nội địa hóa sản phẩm trung, cao cấp thay thế
hàng nhập khẩu thông qua các gói tín dụng ưu đãi, chính sách đổi mới công nghệ
và hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh về giá và chất lượng, tập
trung vào các ngành: thực phẩm chế biến sâu, dược phẩm, mỹ phẩm, hàng điện tử
gia dụng, thiết bị thông minh, logistics nội địa, du lịch nội địa, giáo dục, y
tế chất lượng cao.

Đẩy
mạnh phát triển các chuỗi bán lẻ hiện đại, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp
sản xuất và hệ thống phân phối. Có chính sách ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp
nội địa tham gia hệ thống bán lẻ, hạn chế sự chi phối của các tập đoàn nước
ngoài. Hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng mạng lưới phân phối. Thiết kế các gói tín dụng
linh hoạt, phù hợp, có giám sát rủi ro để kích thích tiêu dùng nội địa. Cùng với
đó là có chính sách tăng cường chi tiêu công định hướng tiêu dùng nội địa; ưu
tiên chi tiêu công cho các lĩnh vực có khả năng tạo “hiệu ứng dây chuyền”
trong nền kinh tế.

Đối
với đầu tư, đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng nguồn lực; thúc đẩy
xã hội hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước theo hướng “lấy đầu
tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân”. Đặc biệt, cần xây dựng bộ tiêu chí để theo dõi
và giám sát hiệu quả, vai trò của vốn đầu tư công trong thu hút các nguồn lực đầu
tư tư nhân trên cơ sở đánh giá hiệu quả chi tiêu đầu tư dựa trên kết quả, áp dụng
chỉ số hiệu suất, tỷ lệ lan tỏa kinh tế và chỉ số năng suất đầu tư.

Tiếp
tục thúc đẩy triển khai các mô hình mới như “đầu tư công – quản trị tư”, “đầu
tư công – sử dụng tư”… Ưu tiên nguồn lực nhà nước đầu tư cho phát triển hạ tầng
liên kết vùng, hạ tầng năng lượng, các công trình trọng điểm, khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Thực hiện đồng bộ các chính sách để hướng
tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất; phát huy kênh huy động vốn trung và
dài hạn của thị trường chứng khoán cho đầu tư, tăng trưởng.

Đẩy
mạnh phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp minh bạch an toàn. Xây dựng
hệ sinh thái tài chính toàn diện, lành mạnh. Tháo gỡ, xử lý triệt để các tồn động
trong thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công. Tập trung tháo gỡ các dự án tồn đọng,
chậm triển khai để nhanh chóng giải phóng đưa các nguồn lực vào phục vụ phát
triển, tăng trưởng kinh tế.

Sớm
thiết kế lại bộ công cụ thu hút FDI, chuyển từ trọng tâm ưu đãi thuế sang các
chính sách hỗ trợ khác gồm: cung cấp mặt bằng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật
trong khu công nghệ cao; hỗ trợ đào tạo, tuyển dụng lao động kỹ thuật; cung cấp
dịch vụ công trọn gói, đồng bộ và nhanh chóng; đảm bảo tính ổn định pháp lý,
chính sách đầu tư và bảo vệ quyền sở hữu, tài sản hợp pháp của nhà đầu tư.

Tăng
cường thu hút FDI chọn lọc, ưu tiên công nghệ cao, sản xuất xanh, tuần hoàn,
thông minh. Có chính sách thu hút các doanh nghiệp sản xuất chip bán dẫn, AI,
công nghệ cao. Điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng ưu đãi cho các
doanh nghiệp có cam kết cụ thể về chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, sử dụng
linh kiện nội địa.


VnEconomy

Thứ hai, phát triển
các mô hình kinh tế, các không gian phát triển mới, các ngành kinh tế mới nhằm
tạo sức bật cho tăng trưởng kinh tế.

Khẩn
trương hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ cho phát triển các mô hình kinh tế
mới, các ngành kinh tế mới, nhất là kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban
đêm, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, kinh tế khai thác
không gian tầm thấp (LAE), kinh tế không gian vũ trụ, không gian ngầm; một số
ngành công nghiệp như chip bán dẫn, rô-bôt và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo,
công nghiệp sinh học, năng lượng mới; đặc biệt là cơ chế, chính sách nhằm huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển các mô hình kinh tế mới,
ngành kinh tế mới. Mở rộng các hình thức thử nghiệm cấp vốn, tài trợ chuỗi cung
ứng phù hợp cho sự phát triển của các mô hình và ngành kinh tế mới.

Nghiên
cứu ban hành Nghị quyết riêng của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển các
mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới. Sớm ban hành các tiêu chuẩn, quy
chuẩn cần thiết cho các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới, trên cơ sở
hài hòa hóa với các chính sách, thông lệ quốc tế; phù hợp với chuỗi giá trị
toàn cầu.

Tăng
cường liên kết giữa các hiệp hội, doanh nghiệp nhằm phổ biến, thúc đẩy các mô
hình kinh tế mới, ngành kinh tế mới, gắn với chuyển giao công nghệ. Đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, bao gồm cả các chương trình tăng cường
kỹ năng và đào tạo kỹ năng mới cho người lao động thích ứng hiệu quả với các mô
hình kinh tế mới.

Khai
thác tốt nhất, hiệu quả nhất không gian tăng trưởng mới từ các vùng, các địa
phương và các cực tăng trưởng của cả nước. Phát huy vai trò dẫn dắt của các
vùng động lực và các địa phương dẫn đầu với các mô hình, cơ chế, chính sách mới,
vượt trội về đầu tư, tài chính, quy hoạch, đất đai, khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo, chuyển đổi số,… để thu hút mạnh đầu tư.

Thúc
đẩy kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả; là động lực cho tăng
trưởng. Phát triển nông thôn theo hướng đa giá trị, bền vững, có bản sắc gắn với
đô thị hóa. Tạo đột phá trong phát triển kinh tế biển. Tiếp tục thúc đẩy các động
lực tăng trưởng mới từ các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, đặc
khu, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế.


VnEconomy

Thứ ba, kết hợp việc
thúc đẩy mở rộng phạm vi, quy mô gắn với tăng nhanh giá trị gia tăng ở tất cả
các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ.

Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh. Theo đó, đẩy mạnh chuyển đổi số,
chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản
xuất gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo đột phá trong cơ cấu
lại ngành công nghiệp. Phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, đảm bảo vững
chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng cao trong giai đoạn tới.

Phát
triển ngành dịch vụ hiện đại, chất lượng cao theo hướng cơ cấu lại các ngành dịch
vụ ứng dụng công nghệ cao, hiện đại; phát triển một số ngành, sản phẩm dịch vụ
có lợi thế cạnh tranh. Tập trung cho phát triển mạnh du lịch và các ngành công
nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa. Đẩy mạnh các ngành dịch vụ có hàm lượng công
nghệ cao như công nghệ thông tin, viễn thông, logistics, dịch vụ kỹ thuật dầu
khí, hàng không, thương mại điện tử, giáo dục – đào tạo, y tế, tài chính, ngân
hàng,…

Đẩy
mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp với trọng tâm là chuyển từ sản lượng sang giá
trị gia tăng cao, tổ chức sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị. Theo đó,
phát triển các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh lớn, có năng suất, chất lượng,
chế biến sâu, giá trị gia tăng cao. Xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản
chủ lực, sản phẩm có giá trị kinh tế cao, sản phẩm nông nghiệp sinh thái.

Phát
triển mạnh kinh tế nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp xanh,
nông nghiệp tuần hoàn. Ứng dụng công nghệ số trong toàn bộ chuỗi nông nghiệp.
Tăng cường liên kết “4 nhà” một cách thực chất để khắc phục sản xuất nhỏ, manh
mún.

Tập
trung đầu tư hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp. Chủ động mở rộng thị trường tiêu
thụ nông sản. Có cơ chế, chính sách mạnh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp gắn với hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm.

Thứ
tư, phát huy nội lực và mối liên kết giữa các khu vực kinh tế và giữa các doanh
nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tập thể năng động,
hiệu quả, bền vững. Phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất
của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả khu vực đầu tư nước ngoài.

Có
chính sách phù hợp để hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, quy mô lớn,
đầu đàn để dẫn dắt chuỗi giá trị trong nước, là hạt nhân xây dựng hệ sinh thái
cụm ngành và mở rộng, tham gia thị trường toàn cầu. Hỗ trợ tập đoàn kinh tế tư
nhân Việt Nam mua lại công ty công nghệ nước ngoài để làm chủ công nghệ lõi
tiên tiến.

Nhà
nước bảo lãnh hoặc cung cấp tín dụng ưu đãi cho các thương vụ chiến lược, mở rộng
sản xuất ra nước ngoài. Nghiên cứu cơ chế, chính sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế,
chỉ định thầu hoặc khuyến khích các doanh nghiệp lớn tham gia các dự án và
nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng, cấp bách quốc gia.

Xây
dựng và triển khai cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp lớn cam kết
chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị, thử nghiệm sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật
và đào tạo nguồn nhân lực, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việt Nam.

Thí
điểm mô hình doanh nghiệp nhà nước đổi mới sáng tạo trong một số tập đoàn lớn để
dẫn dắt đổi mới sáng tạo quốc gia, đóng vai trò đầu tàu công nghệ trong các
ngành chiến lược, được áp dụng một số cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox)
về đầu tư – quản lý, có thể thực hiện đầu tư mạo hiểm vào các startup công nghệ
tiềm năng trong nước. Đồng thời, có chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận
vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa theo mức độ tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị.

Thúc
đẩy và tăng tỷ lệ nội địa hóa thông qua liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp nội địa, nhất là trong các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, ưu
tiên; yêu cầu các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa
ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án.

Xây
dựng cơ chế hỗ trợ có điều kiện, có đánh giá hiệu quả, trong đó các ưu đãi, hỗ
trợ được ràng buộc với các cam kết cụ thể về tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao
công nghệ, đầu tư R&D, phát triển chuỗi cung ứng trong nước, đào tạo nhân lực
tại chỗ, xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo. Áp dụng cơ chế ưu đãi sau – ưu
đãi theo kết quả để thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại cho doanh nghiệp
trong nước.


VnEconomy

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 39-2025 phát hành ngày 29/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây: 

Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam.html


VnEconomy

Giải mã nội lực: Nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu

07:23, 01/10/2025

Giải mã nội lực: Nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu

IMF: Kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ nhưng đối mặt nhiều rủi ro bất định

13:12, 18/09/2025

IMF: Kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ nhưng đối mặt nhiều rủi ro bất định

Xây dựng Cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trên toàn quốc: Động lực mới cho kinh tế Việt Nam

08:37, 18/09/2025

Xây dựng Cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trên toàn quốc: Động lực mới cho kinh tế Việt Nam

(Nguồn tin)

Chia sẻTweetChia sẻ

Đăng ký nhận cập nhật mới nhất về các bài viết cùng chủ đề.

Hủy đăng ký
Bài viết trước

Lãi suất gửi tiết kiệm thấp, ngân hàng “quay xe” huy động vốn qua kênh trái phiếu

Bài viết sau

Bộ Công Thương nói gì?

Bài viết liên quan

Điện lực Hà Tĩnh lên tiếng vụ cột điện bê tông gãy đổ lộ chi tiết gây chú ý
Đầu tư

Điện lực Hà Tĩnh lên tiếng vụ cột điện bê tông gãy đổ lộ chi tiết gây chú ý

02/10/2025
1
Tôi bị nghi ngờ và mang tiếng vì là “kẻ có tóc”
Đầu tư

Tôi bị nghi ngờ và mang tiếng vì là “kẻ có tóc”

01/10/2025
1
Đóng điện thành công dự án đường dây 500 kV Lào Cai
Đầu tư

Đóng điện thành công dự án đường dây 500 kV Lào Cai

01/10/2025
0
Bài viết sau
Bộ Công Thương nói gì?

Bộ Công Thương nói gì?

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết mới

  • Flagship hiện đại: Sao lại không thể gập?
  • Lộ diện 18 doanh nghiệp được chọn làm nhà ở xã hội
  • Phạt các sàn thương mại điện tử khi có hàng giả và hàng nhái để bảo vệ người tiêu dùng
  • Điện lực Hà Tĩnh lên tiếng vụ cột điện bê tông gãy đổ lộ chi tiết gây chú ý
  • Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 10/2025

Bình luận gần đây

    Bài viết lưu trữ

    • Tháng mười 2025
    • Tháng chín 2025
    • Tháng sáu 2025
    • Tháng năm 2025
    • Tháng tư 2025
    • Tháng ba 2025
    • Tháng hai 2025
    • Tháng Một 2025
    • Tháng mười hai 2024
    • Tháng mười một 2024
    • Tháng mười 2024
    • Tháng chín 2024
    • Tháng tám 2024
    • Tháng bảy 2024
    • Tháng sáu 2024
    • Tháng năm 2024
    • Tháng tư 2024
    • Tháng ba 2024
    • Tháng hai 2024
    • Tháng Một 2024
    • Tháng mười hai 2023
    • Tháng mười một 2023
    • Tháng mười 2023
    • Tháng chín 2023
    • Tháng tám 2023
    • Tháng bảy 2023
    • Tháng sáu 2023
    • Tháng năm 2023
    • Tháng tư 2023
    • Tháng ba 2023
    • Tháng hai 2023
    • Tháng Một 2023
    • Tháng mười hai 2022
    • Tháng chín 2022
    • Tháng bảy 2022
    • Tháng sáu 2022
    • Tháng năm 2022
    • Tháng tư 2022
    • Tháng ba 2022
    • Tháng hai 2022
    • Tháng mười hai 2021
    • Tháng mười một 2021
    • Tháng mười 2021
    • Vietnamleads
    • Liên hệ
    Email us: us@vietnamleads.com

    © 2021 | Vietnamleads

    Không có kết quả
    Xem tất cả kết quả
    • Thị trường
    • Doanh nghiệp
    • Đầu tư
    • Hạ tầng
    • Tài chính
      • Ngân hàng
      • Bảo hiểm
    • Chuyển đổi số
      • Số hóa
    • Chính sách
    • To Foreigner
      • Opportunities
      • Policy & Regulation
    • Đăng nhập

    © 2021 | Vietnamleads

    Chào mừng bạn trở lại!

    Đăng nhập với Facebook
    Đăng nhập với Google
    Hoặc

    Đăng nhập vào Tài khoản bên dưới

    Quên Mật khẩu?

    Lấy lại Mật khẩu

    Vui lòng nhập Tên đăng nhập hoặc Email để đặt lại Mật khẩu.

    Đăng nhập
    Trang web này sử dụng cookie. Bằng cách tiếp tục sử dụng trang web này, bạn đồng ý với việc sử dụng cookie.