• Vietnamleads
  • Liên hệ
31/05/2025
Vietnamleads
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
  • Thị trường
  • Doanh nghiệp
  • Đầu tư
  • Hạ tầng
  • Tài chính
    • Ngân hàng
    • Bảo hiểm
  • Chuyển đổi số
    • Số hóa
  • Chính sách
  • To Foreigner
    • Opportunities
    • Policy & Regulation
  • Thị trường
  • Doanh nghiệp
  • Đầu tư
  • Hạ tầng
  • Tài chính
    • Ngân hàng
    • Bảo hiểm
  • Chuyển đổi số
    • Số hóa
  • Chính sách
  • To Foreigner
    • Opportunities
    • Policy & Regulation
VNL
Không có kết quả
Xem tất cả kết quả
VNL Đầu tư

Đầu tư và các quan hệ cân đối kinh tế

30/05/2025
0 0
A A
0
Đầu tư và các quan hệ cân đối kinh tế
0
Chia sẻ
Share on FacebookShare on Twitter

Để xác định đầu tư bao nhiêu, không chỉ là xác định số lượng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và tốc độ tăng lượng vốn, mà cần xác định trong mối quan hệ với GDP, bởi đó là quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng, đầu tư là động lực vật chất của tăng trưởng. Tuy nhiên, quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng còn tác động đến nhiều mối quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô khác, như lạm phát, nguồn vốn từ đâu, đầu tư vào đâu và hiệu quả đầu tư…

TỶ LỆ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN/GDP

Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP của Việt Nam trong thời gian qua thể hiện ở hình 1. Theo đó, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP của Việt Nam trong mấy năm nay đã có xu hướng thấp xuống, nhưng vẫn thuộc những nước có tỷ lệ cao trên thế giới (thứ nhất Đông Nam Á, thứ 5 châu Á, thứ 8 thế giới); chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc và một số nước, vùng lãnh thổ khác, ở châu Phi (như Mô-dămbích, Tandania, Xênêgan), ở châu Á (như Mông Cổ, Udơbêkitxtan, Nêpan).

Vốn đầu tư là tiền đề của tăng trưởng, phổ biến đối với các nước và vùng lãnh thổ có GDP bình quân đầu người còn thấp, bức thiết trước yêu cầu tăng trưởng; trong khi những nước này có năng suất lao động thấp… Tuy nhiên, đây cũng là những nước thiếu vốn, tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP cao, hiệu quả đầu tư còn thấp…

Đầu tư và các quan hệ cân đối kinh tế - Ảnh 1

Tỷ trọng đóng góp của việc tăng vốn đầu tư vào tốc độ tăng trưởng GDP thường rất cao, trong nhiều năm còn chiếm trên 1/3, thậm chỉ có năm còn chiếm trên một nửa. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển/GDP có xu hướng giảm xuống. Sự giảm xuống này do nhiều yếu tố, có yếu tố do tỷ lệ lợi nhuận trước thuế còn thấp, có yếu tố do việc giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, thường không đạt kế hoạch, còn bị lãng phí, thất thoát. Vốn đầu tư xã hội còn bị “chôn” vào một số kênh không trực tiếp sản xuất kinh doanh, như tiền ảo, vàng, bất động sản…

Năm 2025 có mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư cao. Với suất đầu tư tăng trưởng (tính bằng cách chia tỷ lệ vốn đầu tư/GDP cho tốc độ tăng GDP tính theo giá thực tế) của 3 năm 2021-2024 khoảng trên 5 lần, với GDP tính theo giá thực tế ước tính đạt 12.893 triệu tỷ đồng, thì nhu cầu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2025 sẽ vào khoảng 4,3 triệu tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2024. Tốc độ tăng này đã cao hơn tốc độ tăng GDP (giá thực tế), có nghĩa là đòi hỏi phải tăng vốn đầu tư – tiền đề vật chất của tăng trưởng. Do vậy, cần quan tâm đến yêu cầu này để có lượng vốn nhiều hơn, tập trung vốn hơn cho trực tiếp sản xuất kinh doanh.

Nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có từ 3 nguồn (nhà nước, ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài). Tỷ trọng 3 nguồn này trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong một số thời kỳ như sau (Hình 2).

Nguồn nhà nước có xu hướng giảm. Đó là xu hướng tích cực, bởi khi đất nước đổi mới, chuyển dần sang kinh tế thị trường, thì vai trò đầu tư của Nhà nước giảm dần, vai trò của thị trường sẽ tăng dần… 

CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ

Trong nguồn vốn nhà nước, cơ cấu theo hướng tỷ trọng vốn địa phương cao hơn của Trung ương (trên dưới 60% so với trên dưới 40%), phần vốn đầu tư công cao hơn các nguồn vốn khác (trên 60% so với dưới 40%)…

Nguồn ngoài nhà nước có tỷ trọng tăng theo thời gian, hiện đã chiếm trên một nửa tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tức là cao hơn tổng hai nguồn vốn còn lại. Tỷ trọng tăng lên và cao này là kết quả tích cực của đường lối đổi mới nhằm khai thác nguồn vốn của các thành phần kinh tế ở trong nước, biến nguồn vốn này trở thành động lực của tăng trưởng. Đồng thời, nguồn vốn này cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu của các loại hình kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong tổng GDP (từ dưới 50% trước 2015, lên trên 50% từ 2015).

Riêng khu vực doanh nghiệp đang hoạt động, loại hình ngoài nhà nước, số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh đã tăng từ 268,8 nghìn doanh nghiệp (chiếm 96,25% tổng số) năm 2010 lên 710,7 nghìn doanh nghiệp (chiếm 96,62% tổng số) năm 2022. Số lao động tăng từ 5.983 nghìn người (chiếm 61,42%) lên 9081,6 nghìn người (chiếm 59,2% tổng số) năm 2022, chủ yếu do số doanh nghiệp mới có quy mô về lao động ít.

 Vốn sản xuất kinh doanh bình quân tăng từ 5.451,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,19% tổng số) lên 30.193 nghìn tỷ đồng (chiếm 59,3% tổng số); giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn tăng từ 2.129,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 45,71% tổng số) lên 10.996,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 61,3% tổng số); doanh thu tăng từ 4.068,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 54,33% tổng số) lên 20.677,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 57,4% tổng số).

Tổng thu nhập của người lao động tăng lên 237,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,02% tổng số) lên 1.073,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 51,89% tổng số); thu nhập bình quân 1 tháng của người lao động tăng từ 3.420 nghìn đồng (bằng 82,9% bình quân chung), lên 10.200 nghìn đồng (bằng 88,7% bình quân chung); lợi nhuận trước thuế tăng từ 115,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 32,46% tổng số) lên 555,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,04 tổng số); tỷ suất lợi nhuận giảm từ 2,71% (bằng 59,8% bình quân chung), xuống 2,69% (bằng 66,3% bình quân chung).

Nguồn FDI đầu tư vào Việt Nam đăng ký và thực hiện thời gian qua thể hiện ở hình 3. Theo đó, từ năm 1988 đến nay, tổng vốn đăng ký FDI đạt 610.240 tỷ USD, lượng vốn thực hiện đạt 322.123 tỷ USD, tỷ lệ thực hiện/đăng ký đạt 52,8%. Năm 2024 cao hơn mức bình quân các thời kỳ cả về vốn đăng ký, vốn thực hiện và tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký.

Lượng vốn FDI thực hiện chiếm khoảng trên dưới 20% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Khu vực này đã chiếm 10,3% tổng số lao động đang làm việc, chiếm 20,9% GDP. Trong khu vực doanh nghiệp, doanh nghiệp khu vực FDI có: số doanh nghiệp tăng từ 7.248 doanh nghiệp (chiếm 2,59% tổng số) lên 22.930 doanh nghiệp (chiếm 3,12% tổng số); số lao động tăng từ 2.156,1 nghìn người (chiếm 22,13% tổng số) lên 5254,2 nghìn người (chiếm 34,24%).

Số vốn sản xuất kinh doanh tăng từ 1.687,5 nghìn tỷ đồng (chiếm15,57% tổng số) lên 11.330,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 20,2%); giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn là 770,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 16,53%) lên 4334,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 24,41%); tổng số doanh thu tăng từ 1.386 nghìn tỷ đồng (chiếm 18,51% tổng số) lên 10974,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 30,52%).

Tổng thu nhập tăng từ 103,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 22,23%) lên 790.431 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,22%); thu nhập bình quân một tháng của người lao động tăng từ 4.252 nghìn đồng/tháng (bằng 103,1% bình quân chung) lên 12.638 nghìn đồng/tháng (bằng 109,9% bình quân chung); lợi nhuận trước thuế đạt 125,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 35,2%) lên 556.168 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,1%); tỷ suất lợi nhuận năm 2010 đạt 8,84% (bằng 195,1% bình quân chung), năm 2023 đạt 5,07% (bằng 124,9%).

Tính từ năm 1988 đến nay đã có hàng trăm nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, trong đó “câu lạc bộ” đạt 1 tỷ USD trở lên hiện có 23 thành viên, với 16 thành viên đạt trên 3 tỷ USD, 12 thành viên đạt trên 10 tỷ USD, có 6 thành viên đạt trên 20 tỷ USD, đó là: Hàn Quốc 93,3 tỷ USD, Singapore 83,8 tỷ USD, Nhật Bản 75,3 tỷ USD, Hong Kong (TQ) 43,6 tỷ USD, Đài Loan 36,0 tỷ USD, Trung Quốc 31,1 tỷ USD. Chỉ với 6 thành viên này đã đạt 295,4 tỷ USD, chiếm 48,4% tổng số FDI đăng ký của cả nước.

Khả năng năm 2025 sẽ có thêm nhiều dự án FDI rời Trung Quốc chuyển sang Việt Nam để “né” thuế nhập khẩu vào Mỹ, khi thuế suất nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ tăng cao hơn nữa.

Tính từ năm 1988 đến nay, cả nước có 42 thành viên là các tỉnh, thành phố có lượng vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD, trong đó có 31 đạt trên 3 tỷ USD, 14 đạt trên 10 tỷ USD, đặc biệt có 6 thành viên đạt trên 30 tỷ USD gồm: TP.HCM 59,1 tỷ USD, Hà Nội 42,7 tỷ USD, Bình Dương 42,1 tỷ USD, Đồng Nai 37,5 tỷ USD, Bà Rịa – Vũng Tàu 36,5 tỷ USD, Hải Phòng 33,4 tỷ USD. Chỉ với 6 thành viên này đã đạt 198,1 tỷ USD, chiếm 32,47% tổng số FDI đăng ký của cả nước. Nhờ có lượng vốn đăng ký và thực hiện cao, mà các thành viên cao trong “câu lạc bộ” cũng có tổng GRDP hoặc GRDP bình quân đầu người thuộc loại cao trong cả nước.

“Đầu tư vào đâu?” là câu hỏi quan trọng trong các câu hỏi về vốn đầu tư, bởi có liên quan đến nhiều câu hỏi khác và có liên quan đến nhiều quan hệ cân đối kinh tế vĩ mô. Do hạn chế về số liệu, ở đây chỉ đề cập đến nhóm ngành kinh tế. Tỷ trọng vốn đầu tư vào các nhóm ngành qua các thời kỳ thể hiện ở Hình 4.

Vốn đầu tư vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt kết quả tích cực, rõ nhất là xây dựng nông thôn mới nhằm thay đổi bộ mặt nông thôn, đưa khoa học, công nghệ cao vào chế biến, làm tăng giá trị nông, lâm sản, đưa các doanh nghiệp về nông thôn làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, thu hút lao động nông nghiệp…

Tuy nhiên, tỷ trọng đầu tư vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm và hiện còn thấp xa so với tỷ trọng về GDP, xuất khẩu…; nếu không kể một phần đầu tư cho phòng, chống, khắc phục thiệt hại thiên tai (đầu tư chung cho tất cả các nhóm ngành, cho đời sống dân sinh, không chỉ riêng cho nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản) thì tỷ trọng đó còn thấp hơn nữa.

Trong điều kiện Việt Nam ở gần những nước đông dân, đang chuyển nhanh sang phát triển công nghiệp, dịch vụ; Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu; số dân đã vượt qua mốc 100 triệu người và mỗi năm tăng thêm gần 1 triệu người,… thì cần xem lại tỷ trọng này…

HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ LÀ VẤN ĐỀ LỚN NHẤT 

Hiệu quả đầu tư là vấn đề lớn nhất của vốn đầu tư, tác động lớn đến các vấn đề đầu tư bao nhiêu, từ đâu, vào đâu của nhà đầu tư. Hiệu quả đầu tư được “đo” bằng hệ số ICOR-tính theo công thức sau:

                        Vi

ICOR= ——————

                  (Gi – Gi-1)

Trong đó: ICOR: hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phản ảnh để 1 đồng GDP thì phải đầu tư bao nhiêu vốn đầu tư. Nếu ICOR cao thì hiệu quả thấp, nếu ICOR thấp thì hiệu quả cao; nếu ICOR tăng thì hiệu quả giảm, nếu ICOR giảm thì hiệu quả tăng; Vi: lượng vốn đầu tư thực hiện năm nghiên cứu; Gi: GDP năm nghiên cứu; Gi-1: GDP năm trước năm nghiên cứu, lưu ý: cả vốn đầu tư và GDP đều tính theo giá so sánh.

Hệ số ICOR của Việt Nam qua các năm thể hiện ở Hình 5. Từ năm 2019 trở về trước, ICOR của Việt Nam ở mức trên 5,7 lần, tuy có xu hướng giảm, nhưng vẫn thuộc loại cao so với nhiều nước (ở mức khoảng 3 lần), nhưng đã tăng ở mức rất cao khi đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát ở Việt Nam. Lượng vốn đầu tư khá cao, nhưng tăng trưởng GDP ở mức thấp, làm cho để tăng 1 đồng GDP thấp, nhưng lượng vốn đầu tư bỏ ra lớn.

Từ năm 2022, ICOR của Việt Nam đã thấp xuống, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã có sự cải thiện một bước. Nhưng ICOR của Việt Nam vẫn còn ở mức cao, tức là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn ở mức thấp.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam tuy gần đây được cải thiện, do đạt được sự cải thiện trong các khâu quy hoạch, đấu thầu, giải phóng mặt bằng; giảm sự lãng phí, thất thoát do công tác phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh hơn,… tuy nhiên, đó mới chỉ là sự cải thiện bước đầu, khi hệ số ICOR còn cao, do một số yếu tố tác động.

Một là, công tác quy hoạch còn chậm. Sự kết nối giữa các địa phương và cả nước chưa chặt chẽ, thống nhất, dẫn đến sự chống chéo, dàn trải, hiệu quả sử dụng chưa cao. Một lượng vốn không nhỏ đang bị “chôn” vào các kênh không trực tiếp sản xuất kinh doanh, như tiền ảo, vàng, bất động sản,…

Nội dung bài viết được đăng tải trên ẩn phẩm đặc biệt Kinh tế 2024-2025: Việt Nam & Thế giới phát hành vào tháng 02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây: 

https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1262

Đầu tư và các quan hệ cân đối kinh tế - Ảnh 2

(Nguồn tin)

Chia sẻTweetChia sẻ

Đăng ký nhận cập nhật mới nhất về các bài viết cùng chủ đề.

Hủy đăng ký
Bài viết trước

Dollar posts 3rd straight day gain against dong

Bài viết sau

Giá vàng nhẫn, vàng SJC tăng vọt

Bài viết liên quan

Sẽ thay nhà thầu cao tốc Cần Thơ - Cà Mau nếu thi công chậm tiến độ
Đầu tư

Sẽ thay nhà thầu cao tốc Cần Thơ – Cà Mau nếu thi công chậm tiến độ

31/05/2025
0
Đại biểu Quốc hội “kể tội” của độc quyền vàng miếng, mong trả vàng về đúng giá trị thực
Đầu tư

Đại biểu Quốc hội “kể tội” của độc quyền vàng miếng, mong trả vàng về đúng giá trị thực

31/05/2025
0
Thụy Sĩ cam kết hỗ trợ Việt Nam 50 triệu USD
Đầu tư

Thụy Sĩ cam kết hỗ trợ Việt Nam 50 triệu USD

31/05/2025
0
Bài viết sau

Giá vàng nhẫn, vàng SJC tăng vọt

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết mới

  • Dollar dips against dong on black market
  • ‘đòn bẩy’ thúc đẩy bất động sản khu vực đăng cai tăng tốc
  • Giấy chứng nhận an toàn thực phẩm hết hạn
  • Ngân hàng NCB hé lộ bất ngờ mới về dòng Thẻ “Tự Hào” sau thành công của thẻ visa “Thống Nhất”
  • Shark Lê Hùng Anh đầu tư dự án 3.373 tỉ đồng ở Quảng Nam

Bình luận gần đây

    Bài viết lưu trữ

    • Tháng năm 2025
    • Tháng tư 2025
    • Tháng ba 2025
    • Tháng hai 2025
    • Tháng Một 2025
    • Tháng mười hai 2024
    • Tháng mười một 2024
    • Tháng mười 2024
    • Tháng chín 2024
    • Tháng tám 2024
    • Tháng bảy 2024
    • Tháng sáu 2024
    • Tháng năm 2024
    • Tháng tư 2024
    • Tháng ba 2024
    • Tháng hai 2024
    • Tháng Một 2024
    • Tháng mười hai 2023
    • Tháng mười một 2023
    • Tháng mười 2023
    • Tháng chín 2023
    • Tháng tám 2023
    • Tháng bảy 2023
    • Tháng sáu 2023
    • Tháng năm 2023
    • Tháng tư 2023
    • Tháng ba 2023
    • Tháng hai 2023
    • Tháng Một 2023
    • Tháng mười hai 2022
    • Tháng chín 2022
    • Tháng bảy 2022
    • Tháng sáu 2022
    • Tháng năm 2022
    • Tháng tư 2022
    • Tháng ba 2022
    • Tháng hai 2022
    • Tháng mười hai 2021
    • Tháng mười một 2021
    • Tháng mười 2021
    • Vietnamleads
    • Liên hệ
    Email us: us@vietnamleads.com

    © 2021 | Vietnamleads

    Không có kết quả
    Xem tất cả kết quả
    • Thị trường
    • Doanh nghiệp
    • Đầu tư
    • Hạ tầng
    • Tài chính
      • Ngân hàng
      • Bảo hiểm
    • Chuyển đổi số
      • Số hóa
    • Chính sách
    • To Foreigner
      • Opportunities
      • Policy & Regulation
    • Đăng nhập

    © 2021 | Vietnamleads

    Chào mừng bạn trở lại!

    Đăng nhập với Facebook
    Đăng nhập với Google
    Hoặc

    Đăng nhập vào Tài khoản bên dưới

    Quên Mật khẩu?

    Lấy lại Mật khẩu

    Vui lòng nhập Tên đăng nhập hoặc Email để đặt lại Mật khẩu.

    Đăng nhập
    Trang web này sử dụng cookie. Bằng cách tiếp tục sử dụng trang web này, bạn đồng ý với việc sử dụng cookie.