Thưa ông, Đà Nẵng được đánh giá là địa phương tiên phong triển khai Nghị quyết và Đề án chuyển đổi số theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia. Một trong những thành công có tính điển hình là tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công của người dân được xử lý trực tuyến toàn trình. Xin ông cho biết thêm về những kết quả nổi bật và ấn tượng của TP.Đà Nẵng về chuyển đổi số trong năm 2024?
Thành phố Đà Nẵng xác định cung cấp dịch vụ công trực tuyến là một nhiệm vụ trọng tâm của chính quyền điện tử, chính quyền số. Trong thời gian qua, Thành phố đã triển khai nhiều giải pháp mới, đồng bộ và có kết quả tích cực trong cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Cụ thể, theo đánh giá và đo lường (theo thời gian thực) của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình (mức cao nhất) của TP. Đà Nẵng là 95% (trung bình các tỉnh, thành là 55%); tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình là 65% (trung bình các tỉnh, thành là 17%).
Đầu tháng 10/2024, Đà Nẵng được vinh danh trong hạng mục “Cơ quan Nhà nước chuyển đổi số xuất sắc” tại giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam với sản phẩm “Hệ thống giám sát điều hành thông minh”. Đây là năm thứ 5 liên tiếp, Đà Nẵng được Ban Tổ chức Vietnam Digital Awards vinh danh.
Mới đây, ngày 6/11/2024, Ban tổ chức Giải thưởng Thành phố thông minh Việt Nam năm 2024 đã có thông báo kết quả: TP.Đà Nẵng đạt Giải thưởng Thành phố thông minh (duy nhất) Việt Nam năm 2024. Đây là giải thưởng danh giá nhất và duy nhất dành cho nhóm các thành phố/đô thị tại Việt Nam năm 2024 (là năm thứ 5 liên tiếp TP.Đà Nẵng được trao giải thưởng này).
Ngoài ra, TP.Đà Nẵng đạt 3 giải thưởng chuyên đề, bao gồm: (i) Thành phố Điều hành, quản lý thông minh; (ii) Thành phố hấp dẫn Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; (iii) Thành phố Quản lý môi trường thông minh, xanh, sạch.
TP.Đà Nẵng đã thí điểm thành công giải pháp sử dụng công nghệ số để triển khai dịch vụ công toàn trình cho 5% thủ tục hành chính chưa đủ điều kiện còn lại, cũng như tăng tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công toàn trình và đang chuẩn bị triển khai rộng rãi. Theo đó, thay vì người dân đến các cơ quan để trực tiếp nộp hồ sơ, xuất trình giấy tờ, nộp ảnh, ký biên bản theo quy định thì chuyển sang gặp mặt qua camera AI, xác thực qua cơ sở dữ liệu công dân và tài khoản VNeID. Giấy tờ được đọc và trích xuất tự động bằng công nghệ OCR, ký xác nhận qua ký số trên điện thoại di động.
Đối với Đà Nẵng, kết quả triển khai chuyển đổi số đóng góp đến phát triển kinh tế thành phố như thế nào, thưa ông?
Theo ước tính của Bộ Thông tin và Truyền thông, kinh tế số Đà Nẵng năm 2023 chiếm tỷ trọng 20,69% GRDP thành phố, vượt chỉ tiêu đề ra cho năm 2025 (là 20%), tức về đích trước hai năm.
Hiện nay, TP.Đà Nẵng có tỷ lệ 2,3 doanh nghiệp công nghệ số trên 1.000 dân (đứng thứ hai sau TP.HCM; cao gấp ba lần tỷ lệ trung bình cả nước là 0,7 doanh nghiệp công nghệ số/1.000 dân); tổng nhân lực công nghệ thông tin thành phố tính đến cuối năm 2023 khoảng 53.000 người, chiếm 8,5% trong tổng lực lượng lao động toàn thành phố (trung bình toàn quốc là 3,7%).
Trong đó, các doanh nghiệp công nghệ số Đà Nẵng chuyển đổi từ gia công sang làm sản phẩm, từ tỷ lệ gia công từ năm 2021 là 72% sang năm 2023 còn 34%; có 22.000 lao động trong lĩnh vực phần mềm và nội dung số – lực lượng trực tiếp sản xuất, tạo ra sản phẩm công nghệ số; chiếm 45% trong tổng số lao động công nghệ thông tin (tỷ lệ này toàn quốc khoảng 15%).
Các doanh nghiệp đã làm chủ công nghệ, giải pháp, nhất là các công nghệ liên quan đến blockchain, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa…
Công cuộc chuyển đổi số của Đà Nẵng đã đem lại những thành tựu đáng khích lệ trên cả ba trụ cột: chính quyền số, xã hội số và kinh tế số. Từ thực tế thành công của Đà Nẵng, ông nhìn nhận như thế nào về tầm quan trọng và hiệu quả về tính tiên phong của người lãnh đạo và một số bài học kinh nghiệm trong triển khai chuyển đổi số ở TP.Đà Nẵng?
Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình chuyển đổi số của một thành phố là vô cùng quan trọng. Người lãnh đạo không chỉ là những người đưa ra quyết định chiến lược mà còn là những người truyền cảm hứng, tạo động lực cho toàn bộ hệ thống chính quyền và người dân cùng tham gia.
Từ thực tế thành công của Đà Nẵng, chúng tôi đã đúc kết thành bài học kinh nghiệm với bốn yếu tố chính.
Thứ nhất là “Lãnh đạo”, đó là tầm nhìn và sự cam kết thông qua chính sách với công tác tổ chức triển khai liền mạch từ Lãnh đạo thành phố đến Tổ công nghệ số và Đề án 06 là yếu tố quyết định, trong từng giai đoạn các chính sách được ban hành kịp thời bảo đảm tính tổng thể và toàn diện.
Thứ hai là “Liên kết và đồng thuận”, Đà Nẵng có sự phối hợp tốt của các cơ quan chuyên ngành trong việc triển khai các chỉ đạo của lãnh đạo Thành phố liên quan đến việc xây dựng thành phố thông minh, chuyển đổi số; sự tham mưu của sở chuyên ngành; sự trao đổi, phản biện của cơ quan xây dựng mô hình tổ chức là Sở Nội vụ; sự phối hợp triển khai của các sở ngành đã tạo lập, chia sẻ các dữ liệu chuyên ngành.
Thứ ba là “Nguồn lực”. Bên cạnh nguồn lực về con người, nguồn lực về tài chính cũng đóng vai trò quan trọng và là một trong bốn trụ cột của thành phố thông minh, việc tìm kiếm nguồn đầu tư từ các đối tác là doanh nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ (NGO) tạo nên tính đa dạng góp phần đạt được sự cân bằng giữa Nhà nước – Nhà đầu tư – Nhà cung cấp giải pháp, không ngừng cải thiện cuộc sống và tạo ra các cơ hội mới.
Thứ tư là “Lâu dài”. Chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh là quá trình đồng bộ và đột phá với Khung kiến trúc tổng thể là mô hình để định hướng; lộ trình là để cam kết, thể hiện các bước đi cụ thể của thành phố; đa đối tác tạo nên sự đồng hành của cộng đồng tránh được “dò đá qua sông”, “trăm hoa đua nở”, “bị bắt làm con tin”, hạn chế thấp nhất rủi ro trong triển khai.
Vậy, trong 3-5 năm tới, nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng về chuyển đổi số của Đà Nẵng được xác định như thế nào? Các giải pháp để thực hiện các mục tiêu trên là gì, thưa ông?
Mục tiêu lớn của chuyển đổi số Thành phố là đến năm 2030 “Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết nối đồng bộ với các mạng lưới đô thị thông minh trong nước và khu vực ASEAN” (tại Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP.Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045) và “Phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông trở thành ngành kinh tế chủ đạo với tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm gấp 2-2,5 lần tốc độ tăng trưởng GRDP của Thành phố”; đặc biệt là mục tiêu đến năm 2030 “kinh tế số chiếm khoảng 35-40% GRDP” (tại Quyết định số 1287/QĐ-TTg ngày 02/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch TP.Đà Nẵng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050).
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) đã thống nhất một số nội dung trọng tâm, đột phá chiến lược đưa vào Văn kiện Đại hội XIV, trong đó khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Trong thời gian tới, Bộ Chính trị sẽ ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia; các bộ, ngành, địa phương ưu tiên nguồn lực, trí lực, chuẩn bị nhân lực để tập trung thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, góp phần phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Để chủ động tiếp cận, triển khai cụ thể hóa quan điểm, định hướng quan trọng của Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Tô Lâm về cách mạng chuyển đổi số, hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu về chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh trong 5 năm tới; vừa qua Ban Thường vụ Thành ủy thống nhất xây dựng và triển khai “Đề án Chuyển đổi số – động lực phát triển Thành phố số giai đoạn 2026-2030, định hướng đến năm 2035 trên địa bàn TP.Đà Nẵng”. Trong đó đặc biệt chú trọng tới 5 công việc sau:
Một, xây dựng nền quản trị thông minh, quản lý đô thị dựa trên dữ liệu.
Hai, số hóa các tư liệu lịch sử Đảng bộ Thành phố, tư liệu lịch sử, văn hóa và ứng dụng công nghệ số để phục vụ lưu trữ, mô phỏng, trình diễn.
Ba, đẩy mạnh cải cách hành chính, tối ưu hóa quy trình tất cả thủ tục hành chính và các thủ tục sự nghiệp để cung cấp dưới hình thức chữ L thứ nhất là toàn trình trên môi trường số.
Bốn, phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, tích hợp sâu rộng công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự động hóa, phát triển công nghệ số và dữ liệu số trở thành các yếu tố sản xuất mới; chú trọng các lĩnh vực mũi nhọn mới như vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ tài chính (Fintech).
Năm, phát triển nguồn nhân lực công nghệ số, người dân có kỹ năng số, song song với triển khai ứng dụng công nghệ AI rộng rãi để phát triển lực lượng sản xuất tại Thành phố.
VnEconomy 31/01/2025 06:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 4+5-2025 phát hành ngày 27/1/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1194