Sau 6 năm triển khai, Nghị định 98/2018/NĐ-CP đã chứng minh: liên kết chuỗi giá trị là hướng đi đúng và phù hợp với đòi hỏi của một nền nông nghiệp hiện đại. Liên kết đã giúp chuẩn hóa quy trình sản xuất, tạo vùng nguyên liệu lớn, nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường quốc tế…
Ngày 11/11/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
HÌNH THÀNH 3.500 MÔ HÌNH LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ
Phát biểu tại hội nghị, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát
triển nông thôn, cho biết sau 6 năm triển khai,
Nghị định 98 đã tạo bước chuyển mạnh mẽ về tư duy tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp. Đến thời điểm này, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá
trị, với khoảng 300.000 hộ nông dân tham gia thông qua gần 2.000 hợp tác xã và
tổ hợp tác. Khoảng 70% mô hình liên kết có sự tham gia của hợp tác xã trong vai trò đầu mối: tổ chức vùng nguyên liệu, ký kết hợp đồng, kiểm soát chất lượng, phối hợp tiêu thụ sản phẩm.
Trong 6 năm qua, tổng vốn đầu tư huy động
cho các mô hình liên kết đạt trên 20.000 tỷ đồng; trong đó doanh nghiệp đối ứng
50–60%, thể hiện rõ xu hướng chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể trong sản xuất
nông nghiệp hiện đại.
“Nghị định 98
không chỉ đem lại mô hình, mà còn hình thành “văn hóa hợp tác” mới trong nông
nghiệp. Nông dân thay đổi tư duy, chuyển từ sản xuất tự phát sang sản xuất theo
đơn đặt hàng của doanh nghiệp, gắn với tiêu chuẩn kỹ thuật và được đảm bảo đầu
ra”, ông Thịnh khẳng định.
Nhờ cơ chế hỗ trợ từ nghị
định, nhiều hợp tác xã được đầu tư kho bảo quản, máy sấy, hệ thống truy xuất
nguồn gốc, được đào tạo năng lực quản trị. Nhiều địa phương đã hình thành các
vùng nguyên liệu lớn, phục vụ chế biến và xuất khẩu chính ngạch.
Đến nay, đã có 2.938 dự án
liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản được phê duyệt. Tổng vốn huy động đạt hơn
15.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 21%, còn lại do doanh
nghiệp và nông dân đối ứng. “Mỗi đồng ngân sách bỏ ra thu hút được 4,6 đồng vốn
xã hội đầu tư cho chuỗi liên kết”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Các dự án liên kết tập
trung chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt chiếm 67%; chăn nuôi chiếm 24%; lâm nghiệp chiếm 6%. Hợp tác xã là chủ thể
chính của 79% dự án, đóng vai trò “xương sống” của chuỗi liên kết. Khi tham gia
chuỗi, khoảng 60% hợp tác xã mở rộng sản xuất, tăng năng lực quản trị và cải
thiện thu nhập thành viên.
Nếu như trước đây, liên kết
chỉ dừng ở việc mua – bán nông sản, thì hiện nay đã chuyển sang quản trị chuỗi
giá trị. Ví dụ điển hình là Hợp tác xã Long Thành Phát (Đồng Nai) liên kết với
Công ty KOYU UNITEK: nông dân ký hợp đồng tiêu thụ, đồng thời tự đàm phán
với nhà cung cấp thức ăn, thuốc thú y, dịch vụ vận chuyển. Mô hình này giảm chi
phí trung gian và tăng quyền đàm phán của người sản xuất.
Nhờ liên kết, tỷ lệ sản phẩm
nông nghiệp được sản xuất theo mô hình hợp tác và liên kết đã tăng hơn 3 lần so
với năm 2016, đạt trên 32% vào cuối năm 2025. Với các sản phẩm chủ lực như điều,
hồ tiêu, cà phê, mức liên kết đạt từ 40% đến gần 65%.
NHỮNG RÀO CẢN CẦN THÁO GỠ
Phát biểu tại hội nghị, Thứ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh: “Liên kết chuỗi giá
trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu
và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây không chỉ là chỉ đạo, mà còn là định
hướng chiến lược cho tương lai ngành nông nghiệp Việt Nam”.
Bên cạnh những kết quả tích cực, Thứ trưởng Võ Văn Hưng chỉ rõ quá trình triển khai Nghị định 98 vẫn gặp nhiều
vướng mắc. Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ ra ba tồn tại chính: Liên kết chưa
bền vững; nhiều nơi mới dừng ở ký hợp đồng tiêu thụ; chưa khép kín toàn chuỗi từ
sản xuất – chế biến – thị trường.
“Thủ tục hỗ trợ xây dựng liên kết còn phức tạp, khiến doanh nghiệp
và hợp tác xã nhỏ khó tiếp cận chính sách. Liên kết số, liên kết xanh, truy xuất
nguồn gốc chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực của nhiều hợp
tác xã còn yếu, chưa đủ sức trở thành trung tâm của liên kết”, Thứ trưởng Võ Văn Hưng nêu thực tế.

Để khắc phục các hạn chế, Thứ
trưởng Võ Văn Hưng gợi mở 4 định hướng chiến lược.
Thứ nhất: Cải cách cơ chế hỗ
trợ và thủ tục hành chính, lấy hiệu quả chuỗi giá trị làm trọng tâm.
Thứ hai: Phát
triển chuỗi giá trị số và chuỗi giá trị xanh, thúc đẩy truy xuất nguồn gốc, quản
trị số, giảm phát thải và thương mại tín chỉ carbon.
Thứ ba: Tổ chức lại sản xuất
gắn với vùng nguyên liệu đạt chuẩn, minh bạch mã số vùng trồng, bản đồ số.
Thứ tư: Xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp, kết nối sản xuất – thị
trường – hợp đồng – vận hành chuỗi.
Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất, mà còn là niềm tin và bản lĩnh hội nhập của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp Việt Nam”.
Từ thực tiễn triển khai, các đại biểu và chuyên gia tại hội nghị đề xuất sửa đổi Nghị định 98 hướng tới chuỗi giá trị xanh và xuất khẩu bền vững. Theo đó, tăng hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục
vụ chế biến và xuất khẩu; Gắn với chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc, kinh tế
xanh; Mở rộng khái niệm “liên kết”, không chỉ là hợp đồng, mà bao gồm cả tiêu
chuẩn kỹ thuật, truy xuất và tín chỉ carbon; Bổ sung “kế hoạch liên kết” giúp hợp
tác xã nhỏ linh hoạt hơn. Mặt khác, cần quy định rõ vai trò của thương lái và đại
lý trung gian để đảm bảo minh bạch và chia sẻ lợi ích công bằng.
Ông Hoàng Vũ Quang, Phó Viện
trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, đề nghị tăng khả
năng tiếp cận tín dụng thương mại cho doanh nghiệp và hợp tác xã; đồng thời tạo
cơ chế để địa phương sử dụng các nguồn kinh phí hợp pháp khác nhằm thúc đẩy
liên kết.
-Chu Khôi




