Trong bối cảnh thế giới đang tìm kiếm các động lực tăng trưởng mới, “kinh tế tầm thấp” (Low-Altitude Economy – LAE) nổi lên như một “không gian” kinh tế trị giá hàng nghìn tỷ USD. Đối với Việt Nam, đây không chỉ là một xu hướng công nghệ mà còn là một cơ hội chiến lược để tạo ra bước đột phá, nâng cao năng suất và khẳng định vị thế trên bản đồ công nghệ toàn cầu…
Theo dự báo của Morgan Stanley, với
sự phát triển của khoa học công nghệ, quy mô của kinh tế tầm thấp dự kiến sẽ đạt
khoảng 9.000 tỷ USD vào năm 2050. Vì vậy, Hoa Kỳ, Trung Quốc và nhiều quốc gia
khác đang đẩy mạnh “cuộc đua” chiếm thị phần và ưu thế trong lĩnh vực kinh tế đầy
mới mẻ này.
“MỎ VÀNG” NGHÌN TỶ USD
Chia sẻ tại Diễn đàn quốc tế Kinh
tế tầm thấp Việt Nam 2025 (VILAF 2025) sáng ngày 14/11, ông Võ Xuân Hoài, Phó
Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC – Bộ Tài chính) cho biết Việt
Nam đang có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế tầm thấp, đặc biệt trong mảng
thiết bị bay không người lái (UAV hay drone).
“Tuy các doanh nghiệp Việt Nam
còn non trẻ, nhưng đã có dấu ấn nhất định trong phát triển công nghệ trong lĩnh
vực hàng không vũ trụ và thiết bị bay không người lái. Có những doanh nghiệp đã
tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Hoài cho biết.
Bổ sung từ góc độ thị trường, ông
Vũ Anh Tú, Giám đốc Công nghệ Tập đoàn FPT và là thành viên Mạng lưới Hàng không,
vũ trụ, thiết bị bay không người lái Việt Nam (AUVS VN), Đồng bằng sông Cửu
Long hiện là nơi ứng dụng UAV nông nghiệp nhiều nhất Việt Nam. Chính vì vậy, Việt
Nam trở thành “cái nôi” để phát triển UAV nông nghiệp cho nhiều hãng trên thế
giới.

Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch
Mạng lưới AUVS VN và CEO Công ty Saolatek, với vị trí địa chính trị thuận lợi, hệ
sinh thái phụ trợ vững chắc và đặc biệt là năng lực công nghệ lõi (AI, phần mềm
và các nền tảng quản lý không phận – UTM) ngày càng cải thiện, Việt Nam trở thành
điểm đến lý tưởng cho các chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu đang dịch chuyển.
“Trong bối cảnh bất định toàn cầu,
nhiều doanh nghiệp công nghệ đang tìm kiếm những địa điểm đầu tư mới, Việt Nam nổi
lên là điểm đến đầu tư hấp dẫn”, ông Tuấn nói.
Không chỉ là cơ hội
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và thu hút hàng tỷ USD từ các nhà đầu tư nước
ngoài, việc phát triển và ứng dụng UAV trong nước cũng giúp thúc đẩy nền kinh tế
nội địa.
Theo ông Trần Anh Tuấn, hiện nay,
các UAV trong ngành nông nghiệp có khả năng phun thuốc, giám sát đến 60-70 ha
cây trồng trong một ngày, trong khi một lao động lành nghề chỉ xử lý được 1 ha.
Hay trong điện lực, một giờ bay UAV có thể bằng 3 ngày dựng đường dây của một đội
công nhân.
Trong lĩnh vực logistics, với
ngành thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 63 tỷ USD vào năm 2030, UAV trở
thành phương án “giao hàng chặng cuối” cực kỳ hiệu quả. Các chương trình thử
nghiệm đã diễn ra tại Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn đã chứng minh khả năng
rút ngắn thời gian giao hàng và giải quyết các vấn đề địa hình.
Ngoài ra, các ứng dụng trọng điểm
khác đang chờ được khai thác bao gồm: giám sát hạ tầng và năng lượng (với đường
bờ biển dài và nhiều công trình dầu khí, điện lực), cứu hộ cứu nạn (đặc biệt hiệu
quả ở các vùng bị cô lập do bão lũ), du lịch, điện ảnh và an ninh quốc phòng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng này,
Chính phủ Việt Nam đã xác định kinh tế tầm thấp là một trong các ngành mũi nhọn,
được cụ thể hóa trong các quyết định gần đây như Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày
22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Quyết định số 1131/QĐ-TTg năm 2025 về Danh mục
công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược.
THÁCH THỨC KHUNG PHÁP LÝ VÀ HẠ
TẦNG
Cơ hội phát triển ngành kinh tế tầm
thấp tại Việt Nam là vô cùng lớn nhưng chặng đường phía trước còn nhiều thách
thức. Trong đó, hai rào cản lớn nhất, mang tính mấu chốt nhất hiện nay chính là
khung pháp lý và hạ tầng, ảnh hưởng đến sự tự tin của nhà đầu tư và cộng đồng
doanh nghiệp.
Ông Trần Anh Tuấn đã chia sẻ một
câu chuyện thực tế để minh họa cho sự bế tắc này: “Cách đây khoảng 2 tháng, có
một doanh nhân rất lớn hỏi tôi rằng, khi Việt Nam chưa mở không phận để bay thì
làm sao có thể làm được…?”.
Câu hỏi này theo ông Tuấn, đó là tiếng
nói chung của cộng đồng doanh nghiệp. Sự thiếu rõ ràng trong quy định và hành
lang pháp lý khiến các doanh nghiệp, dù sẵn sàng về công nghệ và vốn, cũng
không dám mạnh dạn triển khai.

Để gỡ nút thắt này, ông Vũ Anh Tú
đề nghị sớm hoàn thiện khung pháp lý cho không phận tầm thấp. Ông nhấn mạnh sự
cần thiết của cơ chế sandbox, cho phép các công nghệ mới được thử nghiệm trong
một môi trường được kiểm soát, giúp cơ quan quản lý thu thập dữ liệu thực tế để
xây dựng luật thay vì cấm đoán vì lo ngại rủi ro.
Đối với thách thức về hạ tầng, ông
Võ Xuân Hoài cho biết việc chưa có một không gian bay thử nghiệm là một thiếu
sót vật lý cơ bản cho ngành kinh tế tầm thấp. Doanh nghiệp không thể kiểm chứng,
RD nếu không có một khu vực an toàn, hợp pháp để bay. “Vì vậy, NIC và các
cơ quan đang tích cực làm việc để sớm giải quyết vấn đề này”, ông Hoài thông
tin.
Từ góc độ khác, ông Trần Anh Tuấn
chỉ ra rằng ngành công nghiệp này không chỉ có thiết bị bay mà còn có hệ thống
UTM (Unmanned Traffic Management) – hệ thống dùng để quản lý, quy hoạch không
phận bay. Đây là hạ tầng bên dưới mặt đất, bao gồm phần mềm quản lý, trung tâm
dữ liệu, và các giải pháp công nghệ để điều phối hàng ngàn thiết bị bay cùng
lúc.
“Không nhất thiết là phải bay.
Chúng ta còn hạ tầng dưới mặt đất. Đây chính là sân chơi cho các tập đoàn công
nghệ lớn của Việt Nam như FPT, Viettel… để xây dựng “những con đường trên không”
thay vì chỉ tập trung vào thiết bị bay”, ông Tuấn nêu quan điểm.
Trong bối cảnh ấy, đại diện FPT đề
xuất cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước (hoàn thiện thể chế, mở đường), doanh
nghiệp (đầu tư công nghệ, thương mại hóa) và viện – trường (nghiên cứu cơ bản,
đào tạo nhân lực) để mở “bầu trời” cho ngành kinh tế mới tiềm năng hàng nghìn tỷ
USD thực sự phát triển.
-Anh Nhi




