Quá trình tăng trưởng kinh tế nổi bật của Việt Nam vừa qua dựa chủ yếu vào đóng góp của vốn (chiếm tới 70%) và lao động trong khi năng suất giữ vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, sự già hóa dân số ở Việt Nam dự báo sẽ diễn ra nhanh từ những năm 2040 sẽ kéo theo mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế chuyển từ dương sang âm…
Ngày
13/11/2025, tại kỳ họp thứ 10 (Quốc hội khoá XV), Quốc hội đã biểu quyết thông
qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2026 với tỷ lệ
429/433 (90,51%) số đại biểu thống nhất mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 10% trở
lên và GDP bình quân đầu người đạt 5.400 – 5.500 USD.
2026 là một
năm quan trọng, không chỉ là năm đầu tiên trong giai đoạn 2026 – 2030 với kế hoạch
kinh tế – xã hội 5 năm mà còn là năm đầu tiên của Quốc hội khóa XVI, những vị
trí lãnh đạo chủ chốt từ Trung ương tới địa phương sẽ được bầu ra. Với mục tiêu
tới năm 2030, Việt Nam mong muốn trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao
(trong ngưỡng từ 4.496 – 13.935 USD/người/năm) và năm 2045 là nước thu nhập cao
theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Xét theo mục tiêu này,
Việt Nam hoàn toàn khả thi để nâng mức thu nhập trung bình của toàn dân số vào
năm 2030.
Giới
chuyên gia nhận định Việt Nam sẽ sớm bước vào các nước thu nhập trung bình cao
chỉ trong vòng một hoặc hai năm tới. Giai đoạn 2026 – 2030 được Đảng và Nhà nước
xác định là giai đoạn có tính quyết định cho mục tiêu tham vọng hơn vào năm
2045.
NHÌN TỪ QUÁ KHỨ
Một vài thập
kỷ trở lại đây, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm những quốc gia đang phát triển,
mới nổi và có tiềm năng tăng trưởng cao. Nhưng số liệu gần 40 năm qua
(1985-2024) ghi nhận mức tăng bình quân về GDP là 6,38% kể từ khi Đổi mới
(1986).

Điều đặc biệt là chưa có năm nào Việt Nam đạt được mức tăng trưởng từ
10% trở lên. Nếu không tính đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài
chính châu Á (1998-1999) và Covid-19 (2020-2021), thì từ năm 1992 với làn sóng
đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào, sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường
hóa quan hệ ngoại giao (năm 1995), cho đến nay, tốc độ tăng trưởng trung bình
mà Việt Nam có thể đạt được chỉ là 7,09%.
Điều đó
cho thấy trong những điều kiện bình thường của nền kinh tế thế giới và khu vực
cùng với những động lực đáng kể giai đoạn vừa qua (như làn sóng thu hút đầu tư
nước ngoài (FDI), gia nhập WTO (2007) và ký kết các hiệp định thương mại song
phương và đa phương, sự ra đời của Luật doanh nghiệp (2005) và sự hoàn thiện về
thể chế, luật pháp, tháo gỡ các điểm nghẽn cho kinh tế tư nhân), một câu hỏi mà
tác giả đặt ra đó là: “Nội lực tăng trưởng thực sự mà Việt Nam có thể đạt được
là bao nhiêu?” hay “Cần làm gì để Việt Nam có thể hóa rồng?”.
Nghiên cứu
gần đây của nhóm nghiên cứu thuộc Ngân hàng dự trữ liên bang St. Loius (Hoa Kỳ),
với dữ liệu khoảng 100 quốc gia có mức độ giàu – nghèo khác nhau, đã chỉ ra một
kết luận quan trọng về tiềm năng đuổi kịp của các nước nghèo. Cụ thể, giai đoạn
từ 1960-1999, các nước giàu tăng trưởng nhanh hơn các nước nghèo. Tuy nhiên
trong giai đoạn từ 2000 đến 2019, xu thế này đảo ngược, các nước nghèo tăng trưởng
nhanh hơn so với các nước giàu. Điều này ngụ ý sự đuổi kịp trong việc gia tăng
thu nhập là hoàn toàn khả thi trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Dù tốc độ
tăng trưởng kinh tế hay mức gia tăng liên tục và đáng kể của thu nhập bình quân
đầu người không hoàn toàn phản ánh đúng mức độ phát triển của nền kinh tế cũng
như mức sống, mức độ hạnh phúc của người dân, trong kinh tế học (một ngành
nghiên cứu về vấn đề này) vẫn nhìn nhận 2 biến số trên có mối tương quan chặt
chẽ với nhau. Hiểu đơn giản, nghĩa là để đạt được mục tiêu thoát bẫy thu nhập
trung bình và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 (tức là 20 năm tới),
Việt Nam cần có mức tăng trưởng cao và liên tục trong giai đoạn này.
TÍCH LŨY VỐN VÀ TĂNG TRƯỞNG TFP: ĐỘNG LỰC CHỦ CHỐT
Theo Báo
cáo “Việt Nam trỗi dậy: Con đường hướng tới tương lai thu nhập cao” của Ngân
hàng Thế giới (2025): “Dựa trên mô hình tăng trưởng hướng tới xuất khẩu và tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam
đã đạt mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người khoảng 5,1% mỗi năm trong bốn thập
kỷ qua. Để đạt được vị thế quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam sẽ cần
duy trì mức tăng trưởng nhanh hơn trong hai thập kỷ tới, với tốc độ tăng trưởng
bền vững khoảng 6,0% mỗi năm. Kể từ năm 1990, chỉ có 34 quốc gia và vùng lãnh
thổ chuyển đổi thành công lên nhóm thu nhập cao, trong đó phần lớn là nhờ gia
nhập Liên minh châu Âu (EU) hoặc được hưởng lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên
dồi dào”.
Cũng theo
nhận định của báo cáo này, quá trình tăng trưởng kinh tế nổi bật của Việt Nam vừa
qua dựa chủ yếu vào đóng góp của vốn (chiếm tới 70%), lao động và năng suất giữ
vai trò thứ yếu. Tuy nhiên, già hóa dân số ở Việt Nam dự báo sẽ diễn ra nhanh từ
những năm 2040 sẽ kéo theo mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế
chuyển từ dương sang âm. Điều này đặt ra bài toán thách thức rất lớn hiện nay
cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới và hiệu quả từ việc sử dụng các đầu
vào của hàm sản xuất một cách hiệu quả hơn để đạt được tốc độ tăng trưởng cao
và bền vững.
Các chuyên
gia nhận định động lực chủ chốt mang tính quyết định cho giai đoạn tới của Việt
Nam đó là nhờ vào tích lũy vốn và tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP). Mức TFP mà Việt Nam đã đạt trong thập kỷ vừa qua là 0,9%. Theo đó, với mục
tiêu bước vào nhóm quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, trong điều kiện giữ
nguyên mức đầu tư trên GDP (GFC) là 37%, đồng thời xét đến những tác động của vấn
đề nhân khẩu học, thì Việt Nam cần đạt mức TFP trung bình là 2%. Đây là mức đầy
tham vọng.

Tuy nhiên,
một số quốc gia thành công trong khu vực như Hàn Quốc và Singapore, các quốc
gia này đã đạt được thành tựu kinh tế đáng kể nhờ vào việc tăng năng suất, với
Hàn Quốc là 2,3% trong giai đoạn 1990–2010 và Singapore là 3,3% trong giai đoạn
1970–1980. Như vậy, mức TFP trung bình 2% cho Việt Nam là hoàn toàn khả thi.
Tại tọa
đàm cấp cao: “Năng lực chính sách và Chiến lược cho Kỷ nguyên mới của Việt
Nam”, do Đại học Kinh tế Quốc dân và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc
(UNDP) đồng tổ chức gần đây, GS. Kenichi Ohno (GRIPS, Nhật Bản), người đã có
hàng chục năm kinh nghiệm tư vấn chính sách cho nhiều quốc gia đang phát triển
trên toàn thế giới, đã trình bày bài phát biểu về Phương pháp Chính sách mới
cho Việt Nam. Ông đã chỉ ra những vấn đề mà Việt Nam đã gặp phải cũng như những
bài học thành công từ các quốc gia Đông Á. GS. Kenichi Ohno nhấn mạnh vai trò của
Chính sách là nhân tố chính để Việt Nam có thể học hỏi và cải thiện trong tương
lai.
HIỆN ĐẠI HÓA THỂ CHẾ LÀ YẾU TỐ THEN CHỐT
Theo GS.
Kenichi Ohno, chính sách thiếu chất lượng là nguyên nhân chính của những vấn đề
trong tăng trưởng dài hạn (như rơi vào bẫy thu nhập trung bình hoặc sự trì trệ
sau khi đã bước vào nhóm thu nhập cao). Ông đặc biệt nhấn mạnh vào các gói
chính sách ngành hiệu quả (trước đây thường gọi là chính sách công nghiệp) đối
với trường hợp cụ thể của Việt Nam.
Việt Nam
tuy có nhiều điểm sáng trong khu vực nhưng các động lực tăng trưởng còn yếu,
như vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, đổi mới sáng
tạo và các ngành công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao. Mặt bằng chung về năng suất
còn thấp trong nhóm 5 nước ASEAN, cũng như việc quá lệ thuộc vào dòng vốn FDI
đã khiến cho Việt Nam còn yếu trong các liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu.

Về vấn đề
thể chế, Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2025) cũng đưa ra mô hình gợi ý về các
nhóm chính sách mà Việt Nam cần tập trung trong giai đoạn quyết định này, trong
đó, vấn đề hiện đại hóa thể chế mà Việt Nam đang thực hiện được xem là then chốt
nhằm bảo đảm hiệu quả triển khai của bốn gói chính sách còn lại.
Một là,
thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Hai là, đầu
tư vào hạ tầng có khả năng chống chịu cao.
Ba là,
nâng cao kỹ năng, tăng cường tham gia và thích ứng.
Bốn là, đảm
bảo mọi người dân đều được hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi sang quốc gia thu
nhập cao.
Năm là, hiện
đại hóa thể chế.
Việt Nam
đang bước vào giai đoạn bản lề, nơi tăng trưởng nhanh và bền vững không chỉ là
mục tiêu kinh tế mà còn là điều kiện then chốt để đạt mục tiêu trở thành quốc
gia thu nhập cao vào năm 2045.
—
(*) Đại học
VinUni, Thành viên Mạng lưới Kinh tế Chính sách, Tổ chức AVSE Global
Nội dung đầy đủ bài viết xem chi tiết tại đây:

-Ths. Lê Minh Phượng (*)




