

“Các chính sách đột phá của Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị cũng như Nghị quyết của Quốc hội vừa ban hành như một “luồng gió mới”, thay đổi về tư duy quản lý mang tính đột phá, giúp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc lâu nay đang kìm hãm khoa học công nghệ. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu để thúc đẩy phát triển đất nước.
Điểm đột phá quan trọng nhất của các chính sách mới này là giải quyết toàn bộ những nút thắt về cơ chế, đặc biệt là cơ chế chính sách tài chính. Nghị quyết ra đời đã khơi thông dòng chảy, để nhà khoa học thoải mái, tự tin trong nghiên cứu, khám phá, góp phần thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển.
Việc cho phép thành lập, điều hành doanh nghiệp từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ là rất quan trọng để thương mại hóa, đưa các các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, hình thành phát triển những doanh nghiệp công nghệ kỳ lân. Đơn cử như ở Indonesia sau 25 năm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đến nay họ đã có 20 doanh nghiệp khoa học, công nghệ kỳ lân.
Tôi cho rằng điều này sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam trong giai đoạn tới. Khoa học, công nghệ là con đường duy nhất để đất nước phát triển bứt phá. Đặc biệt, tài nguyên khoa học, công nghệ càng khai thác, càng phát triển, không bao giờ bị cạn kiệt.

Với Việt Nam, đây là sự lựa chọn chính xác, đúng thời điểm, nếu không chúng ta sẽ không thể phát triển đột phá, thậm chí còn bị bỏ lại trong cuộc Cách mạng khoa học, công nghệ lần thứ tư này. Các nước trên thế giới tạo được sự đột phá phát triển đều chú trọng khoa học, công nghệ và được dẫn dắt bởi khoa học, công nghệ.
Thực tế trong thời gian qua, Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam cũng như giới khoa học trên cả nước đều bị chi phối bởi các chính sách chưa phù hợp, không đồng bộ, trở thành những điểm nghẽn, vướng mắc ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu và triển khai thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Do đó, các chính sách mới này đã tạo ra luồng gió mới, động lực để các nhà khoa học dấn thân nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có giá trị, triển khai thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào thực tế phục vụ phát triển đất nước.
Để các chính sách đột phá này đi vào thực tế, những người làm khoa học cần thay đổi tư duy trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, bám sát vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra. Công trình nghiên cứu muốn thương mại hóa được phải phù hợp với nhu cầu thị trường và xã hội. Có như vậy kết quả nghiên cứu mới có khả năng thương mại hóa cao, ứng dụng vào thực tế cuộc sống, mang lại giá trị cho xã hội, đất nước.
Mặt khác, các hiệp hội, doanh nghiệp cũng cần phải nhận diện vấn đề của mình để chia sẻ, hợp tác, đầu tư, kết nối với các giới khoa học, cùng giải quyết đúng và trúng bài toán đang đặt ra.
Tôi cho rằng để các quyết sách đi vào cuộc sống, cần có sự cộng hưởng của các yếu tố này thì mới có thể tạo sự đột phá, thay đổi, thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển”.

“Các nhà khoa học rất vui mừng khi Đảng đã ban hành Nghị quyết về đột phá đối với khoa học, công nghệ. Đến nay, chúng ta lại có Nghị quyết của Quốc hội về tạo cơ chế, chính sách để đột phá trong quá trình thực hiện các hoạt động khoa học, công nghệ.
Như vậy, tôi cho rằng những khát vọng muốn đưa đất nước tạo ra bước phát triển đột phá dựa vào khoa học, công nghệ sẽ trở thành hiện thực nhờ có quyết tâm của Đảng thông qua Nghị quyết, thông qua các hành động cụ thể, có thể chế bằng nghị quyết của Quốc hội. Điều này sẽ tạo ra động lực rất lớn thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và kỳ vọng rằng khoa học, công nghệ sẽ trở thành khâu đột phá để phát triển đất nước.
Về nghị quyết này, tôi rất đồng tình với nhiều điểm đã tháo gỡ những nút thắt về thể chế hiện nay như là tăng ngân sách đầu tư cho khoa học, công nghệ và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, công nghệ. Về rủi ro trong nghiên cứu, chúng ta biết rằng trong nghiên cứu thì chưa thể biết có kết quả thu được hay không. Điều này giống như người khai thác dầu khí có khi 10 mũi khoan may ra mới được một mũi khoan có dầu. Nhưng dầu khí còn biết rằng khoan ra ở dưới có dầu nhưng nghiên cứu khoa học thì chưa biết kết quả thu được là gì, nên mức độ rủi ro trong nghiên cứu còn nhiều hơn.
Xuất phát từ thực tế này, việc đưa ra cơ chế chấp nhận rủi ro là “lối mở” rất lớn để các nhà khoa học yên tâm nghiên cứu.

Trong cơ chế này cũng đã chỉ ra là sẽ thực hiện khoán chi cho các hoạt động trong quá trình nghiên cứu. Điều này sẽ giúp cho các nhà khoa học không phải bận tâm trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, lo hoàn thiện các giấy tờ để đáp ứng các nhu cầu quản lý. Do vậy, tôi cho rằng đây là một điểm tháo gỡ nút thắt rất lớn.
Không chỉ giải quyết vấn đề khoán chi mà phải bỏ tất cả những quy định liên quan đến đấu thầu trong nghiên cứu khoa học công nghệ, nên chuyển sang cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ và khoán chi chứ không thực hiện các cơ chế đấu thầu.
Tôi cũng rất đồng tình là các cơ quan nghiên cứu được lập doanh nghiệp để chuyển giao kết quả nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; như vậy sẽ không có tình trạng nghiên cứu xong lại bỏ vào tủ.
Việc đầu tư kinh phí cho các đơn vị nghiên cứu, trên thế giới phần lớn các trường đại học trở thành trung tâm nghiên cứu, các công bố lớn quốc tế như giải thưởng Nobel cũng ở các trường đại học, thậm chí thung lũng Silicon chính là sản phẩm của trường đại học. Ở Việt Nam, 90% công bố quốc tế cũng xuất phát từ các trường đại học. Tuy nhiên, ngân sách nghiên cứu khoa học hiện nay cấp cho các trường đại học chỉ chiếm khoảng 10% là không tương xứng.
Do vậy, cần phải ưu tiên về đầu tư ngân sách của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học tại các trường đại học, đặc biệt là các trường đại học đang định hướng nghiên cứu, những trường có đào tạo tiến sĩ. Nếu chúng ta không cấp kinh phí cho những hoạt động đào tạo tiến sĩ thì những nghiên cứu sinh tự bỏ kinh phí ra sẽ phải nghiên cứu những gì người ta sẵn có và những kết quả nghiên cứu đó không đóng góp vào giá trị của khoa học.
Nếu nhà trường cấp kinh phí, nghiên cứu sinh nhận được kinh phí đó sẽ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu theo yêu cầu của nhà trường thì những nghiên cứu mới đóng góp lại để dần dần tích lũy, tạo thành một kết quả nghiên cứu chung và trở thành sản phẩm về khoa học”.

“Tổng Bí thư Tô Lâm từng nhấn mạnh phải biến chuyển đổi số thành một phương thức sản xuất, nhưng đi đôi với phương thức, phải có lực lượng – đó là sự kết hợp giữa con người với trí tuệ nhân tạo và dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng.
Điều này có nghĩa, nếu Việt Nam chọn con đường phát triển kinh tế dựa trên công nghệ, thì mọi lĩnh vực cần phải thay đổi để thích ứng. Đòi hỏi từ hệ thống quy định, thể chế đến cơ chế phân cấp, phân tầng phải linh hoạt hơn để tạo ra môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 57 của Đảng đã thể hiện rõ tinh thần thúc đẩy sáng tạo khoa học, công nghệ, đồng thời thể hiện quyết tâm nuôi dưỡng đội ngũ nhà khoa học của Nhà nước…
Tuy nhiên, đã là sáng tạo thì sẽ có điều đúng, điều chưa phù hợp, thậm chí có cả những thất bại, nhưng nếu sợ sai trở thành rào cản, thì sẽ không ai dám đổi mới. Do đó, tôi cho rằng cần một cơ chế thuận lợi, cởi mở, tạo điều kiện để các ý tưởng được thử nghiệm trước tiên cần được thúc đẩy mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, cũng nên “cởi trói” các quỹ đầu tư phục vụ việc nghiên cứu khoa học. Thủ tục chồng chéo, quy trình cứng nhắc đôi khi phản tác dụng, vì chưa gắn với kết quả thực tiễn. Chẳng hạn, nếu một tiến sĩ A có đóng góp nghiên cứu nhiều hơn tiến sĩ B, thì mức lương của A đáng lẽ phải cao hơn.
Tuy nhiên, thực tế lại bình quân hóa, khiến việc thu hút và khai thác nhân tài trở nên khó khăn. Thậm chí có khi phải trả lương cho một thạc sĩ cao hơn tiến sĩ, điều này hoàn toàn hợp lý, nếu xét năng lực xứng đáng hơn. Thế nên, thay vì áp dụng quy định cứng nhắc, phù hợp hơn là nên trao quyền cho các tổ chức, viện nghiên cứu để họ được tự đánh giá và quyết định mức đãi ngộ cho các chuyên gia, miễn là đảm bảo minh bạch và giải trình rõ ràng.
Về vấn đề làm chủ công nghệ, vĩ mô là làm chủ các công nghệ lõi tiên tiến, gần hơn là trao quyền để các chuyên gia, cán bộ công nghệ làm chủ công việc của họ. Thời gian qua, Trường Đại học Công nghệ đã đẩy mạnh cơ chế tự chủ như vậy, áp dụng nguyên tắc làm việc theo nhu cầu và hưởng theo năng lực. Điều này có nghĩa là ai muốn cống hiến nhiều thì có cơ hội làm nhiều, ai muốn làm ít hơn thì có thể điều chỉnh, nhưng vẫn trong một giới hạn nhất định. Mức thu nhập được xác định dựa trên kết quả công việc. Điều này giúp mỗi cá nhân cảm thấy mình được chủ động, được ghi nhận xứng đáng với đóng góp của mình.
Trong quá trình triển khai mô hình này, khó tránh khỏi những tác động ngoài ý muốn. Tuy nhiên, nếu mọi hoạt động được báo cáo minh bạch, rõ ràng, thì hoàn toàn có thể kiểm soát hiệu quả. Khi mỗi cá nhân được trao quyền, được tin tưởng và thực sự làm chủ công việc của mình, tinh thần đổi mới sáng tạo mới phát huy tối đa.

Bên cạnh đó, tôi cũng cho rằng nên để các viện nghiên cứu, các chuyên gia tự định giá để thương mại hóa các nghiên cứu. Thời gian qua, Trường Đại học công nghệ đã hợp tác với rất nhiều doanh nghiệp cả trong và ngoài nước để nghiên cứu. Vấn đề là khi sử dụng quỹ đầu tư từ doanh nghiệp thì đồng nghĩa chấp nhận quyền sở hữu sáng chế phải thuộc về họ; ngược lại, nếu Nhà trường giữ quyền sở hữu sáng chế, bài toán thương mại hóa lại không đơn giản, vì quy trình định giá sản phẩm còn phức tạp.
Định giá sản phẩm là bài toán do thị trường quyết định. Có những sản phẩm đầu tư rất lớn nhưng không mang lại giá trị thương mại, trong khi có những sáng kiến ban đầu tưởng chừng đơn giản lại được thị trường định giá cao, đây là điều rất bình thường trong kinh tế thị trường.
Vì thế, tôi cho rằng nên giảm bớt thủ tục hành chính, cần để các nhà khoa học, các đơn vị nghiên cứu tự định giá và làm chủ, miễn là mức giá đảm bảo cân đối được chi phí đầu tư và mang lại sự hài lòng cho tổ chức nghiên cứu cũng như chuyên gia, thì đó đã là một sự thành công.
Thời gian gần đây, các lãnh đạo cũng bàn về những điểm nghẽn còn tồn trong công tác đấu thầu, không chỉ là giá cả chưa tương xứng với chất lượng mà quy trình kéo dài cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu.
Tôi lấy ví dụ từ chính thực tế của nhà trường, hàng ngày chúng tôi đều phải sử dụng hóa chất thí nghiệm, nếu hết, giải pháp hợp lý nhất là gọi nhà cung cấp bổ sung ngay. Tuy nhiên, theo quy định, mỗi năm chúng tôi phải đấu thầu hóa chất dùng cho cả năm, dẫn đến phải đầu tư thêm kho bãi lưu trữ, phát sinh chi phí bảo quản, nếu không sử dụng hết, lại phải tốn thêm công tác xử lý dôi dư. Chưa kể, đấu thầu không giúp giảm chi phí, mà ngược lại còn có thể khiến giá tăng. Lý do rất đơn giản: quy trình đấu thầu kéo theo nhiều khoản phí vận hành, nhân lực và tổ chức. Cuối cùng, nhà trường vẫn là đơn vị chịu trách nhiệm quyết toán.
Hay nếu máy tính trong trường hỏng, lẽ ra chỉ cần ra ngoài mua một chiếc mới là xong. Nhưng thực tế thì việc mua sắm có thể kéo dài đến 6 tháng. Không phải nhà trường không được tự mua, nhưng quy trình không hề đơn giản. Nếu mỗi lần hỏng chúng tôi tự trang bị máy tính mới, cộng dồn cả năm có thể lên đến vài chục chiếc. Lúc đó, nếu không thực hiện đấu thầu, sẽ bị xem là chưa đúng quy trình. Thế nên, đảm bảo tuân thủ, chúng tôi vẫn phải gom đủ số lượng rồi tổ chức đấu thầu.
Đúng là khi tự làm việc với nhà phân phối, có thể sẽ phát sinh những rủi ro ngoài ý muốn. Nhưng nếu những người chịu trách nhiệm được hưởng mức lương xứng đáng khiến họ thấy cần tự bảo vệ vị trí, thì tôi tin họ sẽ không dám làm trái quy định”.

“Nghị quyết hiện tại đã có các chính sách để nâng cao mối quan hệ giữa nhà khoa học, nhà trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những giải pháp hiện tại, cần nghiên cứu, sắp xếp, tổ chức lại các tổ chức khoa học và công nghệ để khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Trong đó cần chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ công lập hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về trực thuộc các trường đại học để thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo. Đây cũng là điều kiện để có thể thực hiện được việc đầu tư các phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm ở các trường đại học.
Hiện nay, theo các báo cáo, việc đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm ở mức rất thấp, chỉ có khoảng 500 tỷ đồng mỗi năm. Trong khi đó muốn đi tắt, đón đầu cho các ngành công nghệ mới thì chi phí cho việc tổ chức, xây dựng các phòng thí nghiệm là rất lớn.
Tôi nhận thấy việc sắp xếp lại các tổ chức khoa học và công nghệ theo hướng này cũng là một chủ trương đã được đề cập trong Nghị quyết 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Do vậy, cùng với cuộc cách mạng trong việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hiện nay, trong năm 2025 chúng ta cũng cần nghiên cứu, tổ chức lại hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ công lập để thực sự đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo, tạo sức bật cho sự phát triển khoa học và công nghệ trong nước.
Ngoài ra, vấn đề bổ sung chính sách bảo đảm đầu ra của khoa học, công nghệ trong nước, cần tập trung có chính sách để Nhà nước trở thành khách hàng đầu tiên và là khách hàng quan trọng nhất đối với các kết quả nghiên cứu và khoa học, công nghệ trong nước.
Kinh nghiệm các nước cho thấy đây là một vấn đề rất quan trọng. Chẳng hạn, đối với ngành công nghiệp chip bán dẫn, lịch sử của ngành này đã cho thấy nếu không có các chương trình của Nhà nước trong việc tiêu thụ và sử dụng chip bán dẫn trong những thập niên 1950, 1960 thì các doanh nghiệp sản xuất chip vào thời điểm đó sẽ không có đủ nguồn lực và động lực để có thể phát triển chip bán dẫn tiên tiến như ngày hôm nay.
Việc bảo đảm sử dụng các kết quả nghiên cứu phát triển trong các chương trình của Nhà nước cũng còn thể hiện niềm tin của Nhà nước, của nhân dân vào năng lực của khoa học, công nghệ trong nước.

Hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam đã có một số quy định có liên quan, ví dụ Luật Đấu thầu, Luật Khoa học và công nghệ, nhưng các chính sách này vẫn chưa cụ thể. Vì vậy, cần nghiên cứu để tháo gỡ các vướng mắc, sớm đưa các chính sách này vào thực tiễn.
Qua tìm hiểu quá trình phát triển kinh tế – xã hội của các nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy chỉ có dựa trên khoa học, công nghệ chúng ta mới có thể phát triển một cách bền vững. Do vậy, việc ban hành nghị quyết này vào thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết.
Trước hết, về chính sách thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc phát triển khoa học và công nghệ. Đây là vấn đề rất cấp bách, để phát triển khoa học, công nghệ mới thì nhân sự luôn là vấn đề cơ bản nhất.
Thực tế hiện nay chúng ta cũng đang có nhu cầu rất lớn đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Chẳng hạn, trong ngành công nghệ thông tin, theo nghiên cứu của Hiệp hội Phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam, riêng trong năm 2025 Việt Nam đang thiếu 150.000- 200.000 nhân lực công nghệ thông tin, đặc biệt là trong các lĩnh vực như AI, Big Data hoặc lập trình viên và bảo mật an ninh mạng. Để có đủ số lượng này chúng ta vừa phải có các chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm để đào tạo nhân sự trong nước nhưng cũng cần có những nhân sự người nước ngoài đến Việt Nam để làm việc.
Vì vậy, phải có chính sách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, trung tâm nghiên cứu có thể tuyển dụng chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài cũng như chuyên gia quốc tế để tham gia đào tạo, nuôi dưỡng nhân tài Việt Nam ở trong nước thông qua các chính sách, ví dụ hỗ trợ về thị thực, miễn giảm thuế và các chính sách khác để họ có thể tham gia làm việc và đào tạo nhân lực một cách ổn định và lâu dài tại Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta cần phải có chính sách này một cách kịp thời và cạnh tranh, bởi vì hiện nay các nước trong khu vực cũng đang có những chính sách rất cạnh tranh trong thu hút nhân lực chất lượng cao”.

VnEconomy 26/02/2025 18:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 08-2025 phát hành ngày 24/02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
